15 tháng 9, 2021

Chùa Huê Nghiêm 1 (Thủ Đức)

Tên thường gọi: Chùa Huê Nghiêm

Chùa tọa lạc ở số 204 đường Đặng Văn Bi, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Ngày nay, chùa thường được gọi là chùa Huê Nghiêm 1 để phân biệt với chùa Huê Nghiêm 2 ở phường Bình Khánh, quận 2 do HT Thích Trí Quảng sáng lập năm 1975. ĐT: 08.8963023. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Toàn cảnh chùa (1995)

Chùa Huê Nghiêm

Mặt bên chùa

Biển tên chùa

Chùa được Thiền sư Thiệt Thụy – Tánh Tường (1681 – 1757) khai sơn vào thế kỷ XVIII. Nhiều tư liệu hiện nay đã xác định năm thành lập chùa là 1721, là ngôi chùa cổ nhất ở thành phố hiện nay.

Lúc đầu, chùa xây ở vùng đất thấp, cách ngôi chùa hiện nay khoảng 100m. Về sau, bà Nguyễn Thị Hiên (1763 – 1821) pháp danh Liễu Đạo, tự Thành Tâm, đã hiến đất để xây lại ngôi chùa.

Chư vị trụ trì tiền nhiệm của chùa là: HT Thiệt Thụy – Tánh Tường (đời thứ 35 Lâm Tế Chánh Tông), HT Tế Lý – Quảng Đức (đời thứ 36 Lâm Tế Chánh Tông), HT Liễu Xuân – Tiên Minh (đời thứ 37 Lâm Tế Chánh Tông), HT Đạt Lý – Huệ Lưu (đời thứ 38 Lâm Tế Chánh Tông), HT Từ Thông – Hồng Tín (đời thứ 40 Lâm Tế Gia Phổ), HT Lệ Phương – Thiện Bửu (đời thứ 42 Lâm Tế Gia Phổ), HT Hồng Phước – Trí Đức (đời thứ 40 Lâm Tế Gia Phổ), Trụ trì hiện nay là HT Nhật Lượng – Trí Độ (đời thứ 41 Lâm Tế Gia Phổ). Viện chủ là HT Nhật Nghiêm – Trí Quảng (đời thứ 41 Lâm Tế Gia Phổ).

Điện Phật (1995)

Tượng đức Phật A Di Đà

Tượng đức Phật Thích Ca

Tượng Bồ tát Di Lặc

Chùa được trùng tu nhiều lần. Lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX do Thiền sư Đạt Lý – Huệ Lưu tổ chức. Kiến trúc chùa hiện nay được thay đổi ở những lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 và 2003 do các ngài Thiện Bửu, Trí Đức và Trí Độ tổ chức, với mái ngói chồng diêm, các đầu đao cong vút. Bờ nóc mái trang trí những hoa sen cách điệu.

Khuôn viên chùa khá rộng, có nhiều tháp cổ. Tam quan chùa và đài Quan Âm ở sân trước chùa được xây vào năm 1990.

Bàn thờ Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn

Bàn thờ Bồ tát Chuẩn Đề

Bàn thờ Hộ Pháp

Bàn thờ Hộ Pháp

Chánh điện được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí). Bàn thờ kế tiếp thờ Thích Ca Tam Tôn (đức Phật Thích Ca, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền). Trước có tượng Thích Ca Đản sanh và bảy vị Phật Dược Sư. Bàn thờ hai bên thờ Bồ tát Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn và Bồ tát Di Lặc. Sau điện Phật, có bàn thờ linh vị chư Tổ và bàn thờ bà Nguyễn Thị Hiên cùng chư vị Phật tử quá cố.

Bài Tổ đình Huê Nghiêm và huyền thoại ở ngôi mộ cổ (Báo Giác Ngộ ngày 10-01-2001) cho biết: “Đến cuối đời, trước ngày tạ thế, bà bảo với mọi người rằng mình sẽ lâm chung vào ngày mồng 1 tháng 6. Rồi bà nhờ người thân viết vào lòng bàn tay bằng sơn đỏ với dòng chữ: Nguyễn Thị Hiên, làng Linh Chiểu Đông, Gia Định, An Nam, Hoa Nghiêm Tự. Cùng năm ấy (1821), Hoàng hậu triều Mãn Thanh (Trung Quốc) hạ sanh công chúa, ở bàn tay cũng có những chữ giống như trên tay bà Hiên. Vua Mãn Thanh đã gửi sứ giả qua Việt Nam làm rõ nguyên nhân. Theo địa chỉ trên, họ tìm tới chùa Huê Nghiêm và được Tổ Tế Lý (1763 – 1829) xác thực là đúng. Sứ nhà Thanh đã xin trùng tu lại ngôi chùa và xây cất ngôi mộ bà Nguyễn Thị Hiên trong khuôn viên chùa”.

Sách Sổ tay hành hương đất phương Nam (NXB TP. Hồ Chí Minh, 2002) cho biết: “Bà Hiên là một Phật tử chí thành. Bà không chỉ hiến mảnh đất để dựng chùa mà còn là một thí chủ nổi tiếng về lòng từ thiện. Tục truyền, do công đức lúc sanh tiền nên sau khi tạ thế, bà được đầu thai làm công chúa triều nhà Thanh (Trung Quốc). Truyền thuyết kể rằng: Năm 1821, Hoàng hậu nhà Thanh sanh một công chúa, trên lòng bàn tay công chúa nổi một dòng chữ son đỏ: Nguyễn Thị Hiên, Linh Chiểu Đông thôn, Gia Định, Đại Nam. Chính vì vậy, vua nhà Thanh đã sai sứ sang xứ ta để truy tìm tông tích. Tìm đến chùa Huê Nghiêm, xác định rõ lai lịch bà Nguyễn Thị Hiên, sứ giả đã kể lại điều hiển linh kỳ diệu đó, và dâng cúng cho chùa một pho tượng Quan Âm bằng đồng”.

Mộ Bà Liễu Đạo

Tiếng đàn bên đài Quan Âm

Đại pháp cổ

Chùa là nơi phát xuất nhiều vị cao tăng của Phật giáo miền Nam, như Thiền sư Tế Giác – Quảng Châu tức Tiên Giác – Hải Tịnh, Thiền sư Đạt Lý – Huệ Lưu, Hòa thượng Thích Từ Văn, Hòa thượng Thích Trí Đức, Hòa thượng Thích Trí Quảng…

Thiền sư Tế Giác – Quảng Châu được xem là vị Tổ quan trọng nhất ở miền Nam vào thế kỷ XIX. Ngài Tế Giác xuất gia với Tổ Thiệt Thụy, sau đấy, trên đường tiến tu, ngài đã đến tham vấn học đạo với Tổ Phật Ý – Linh Nhạc. Vâng lời chỉ dạy của Tổ Phật Ý, ngài cầu pháp với Tổ Tổ Tông – Viên Quang nên có tên là Tiên Giác – Hải Tịnh (theo dòng truyền thừa của hệ Lâm Tế Gia Phổ). Năm 1825, vua Minh Mạng sắc phong chức Tăng cang cho ngài và bổ nhiệm trụ trì chùa Thiên Mụ (Huế). Đến đời Thiệu Trị, ngài được cử làm trụ trì chùa Giác Hoàng. Ngài đã giáo dưỡng, đào tạo nhiều nhân tài cho Phật giáo. Ngài đã trở thành Tổ sư của cả ba tông: Lâm Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ và Tế Thượng Chánh Tông.

Hàng hậu học nối tiếp dòng Lâm Tế Chánh Tông của Tổ Tế Giác có Tổ Đạt Lý – Huệ Lưu, nổi tiếng là ông vãi bán khoai. Trên đường hành đạo, ngài đã góp phần giáo hóa dân chúng bằng lối thơ mộc mạc.

Đặt ngôi chùa trong quan hệ thân thiết với cộng đồng làng xã, chùa còn giữ bài thơ của Tổ Huệ Lưu gửi làng Linh Chiểu Đông (Gia Định) năm 1897. Bài thơ có đoạn:

Kính thăm hương chức hai chữ miên trường.
Kể từ tôi cư ngụ bổn hương
Tính đã có chín năm đủ vậy
Thấy trong làng những ai cùng nấy
Trên thuận hòa, dưới cũng thuận hòa …
Chốn non đài tôi ngụ hôm nay
Việc am tự nhờ làng chiếu cố
Tôi cũng muốn dốc lòng bồi bổ
Có lời nguyền phải gắng ra đi
Ở trong chùa cúng kiếng việc chi
Chúng tăng thỉnh làng vô nhắc nhở …





Lễ nhập tháp Cố Hòa thượng Thích Trí Đức (15–3–1999)

Hải Đường trong bài Chùa cổ Huê Nghiêm – một số linh vị và truyền thuyết (Báo Giác Ngộ ngày 31-7-1999) cho biết: “Có một mỹ nữ con ruột quan Tri huyện, thương yêu Hòa thượng tột cùng, nên đã không ngừng tới chùa dụ dỗ, cưỡng ép Hòa thượng từ bỏ cửa thiền để làm vị hôn phu của cô. Hòa thượng Huệ Lưu vì đã Đạt Lý chơn tu hơn người nên đã phần thân (xà dy – tự thiêu) về cõi Phật, giữ trọn đạo hạnh, khiến tăng chúng kính phục, tôn làm Tổ”. Trên tháp và linh vị Tổ Huệ Lưu có ghi: “Sùng kiến Huê Nghiêm đường thượng, tự Lâm Tế Chánh Tông tam thập bát thế, húy Đạt Lý, thượng Huệ hạ Lưu Hòa thượng xà dy giác linh miêu tọa …”.

Xuất thân tu học từ tổ đình Huê Nghiêm, HT Thích Trí Quảng, đương nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Trưởng ban Hoằng pháp trung ương, Trưởng ban Trị sự Phật giáo TP. Hồ Chí Minh.

Hằng năm, rất đông Tăng Ni, Phật tử khắp nơi về chùa dự lễ húy kỵ Tổ khai sơn vào ngày 06–10 âm lịch và húy kỵ Tổ Huệ Lưu vào ngày 12 tháng giêng âm lịch. 

Chùa là ngôi cổ tự nổi tiếng ở thành phố xưa nay, đón tiếp thường xuyên Phật tử, du khách trong nước, nước ngoài đến tham quan, chiêm bái.

Tháp Cố Hòa thượng Thích Trí Đức


Vườn tháp

Bài thơ của Thiền sư Huệ Lưu

Bài thơ của Thiền sư Huệ Lưu (chữ Hán)

Bàn thờ bà Liễu Đạo

Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Ngôi chùa cổ xưa nhất Sài Gòn

Nhiều hạng mục tại chùa Huê Nghiêm đã thay đổi diện mạo sau gần 300 năm xây dựng. 

Toạ lạc trên đường Đặng Văn Bi (quận Thủ Đức, TP HCM), chùa Huê Nghiêm (còn gọi là Huê Nghiêm cổ tự) được xây dựng năm 1721. 

Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Ban đầu, nơi đây chỉ là một ngôi chùa nhỏ xây cất trên vùng đất thấp, cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100 m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên (pháp danh Liễu Đạo) đã hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như vị trí hiện nay.

"Diện mạo ngày nay của chùa đã đổi thay nhưng dấu ấn lịch sử trên vùng đất xưa vẫn đậm nét", sư thầy Thích Lệ Phú, Trụ trì chùa, cho biết. 

Cũng theo trụ trì, kiến trúc và cảnh trí chùa đã trải qua nhiều đợt trùng tu. Trong đó, lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ XIX do Thiền sư Đạt Lý – Huệ Lưu tổ chức. 

Mái ngói chùa được thiết kế theo lối cổ truyền với các đầu đao cong vút, bờ nóc mái trang trí hình hoa sen, bánh xe luân hồi cách điệu. 

Ban Tam bảo trong chùa được bài trí tôn nghiêm với nhiều tượng gồm Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo. 





"Dấu ấn cổ xưa trong chùa là bàn thờ bằng gỗ mít đặt tượng Chuẩn Đề, vị bồ tát trong trường phái Đại thừa", Thượng toạ Thích Minh Đạo, Viện chủ của chùa, cho biết. 

Trên chánh điện chùa đặt bàn thờ linh vị chư Tổ Thiệt Thụy - Tánh Tường (1681-1757), người đã có công xây dựng chùa từ những ngày đầu.
Theo lệ, cứ vào lễ húy kỵ Tổ khai sơn (ngày 6 tháng 10 âm lịch) và húy kỵ Tổ Huệ Lưu (ngày 12 tháng Giêng âm lịch) hàng năm, đông đảo tăng ni, phật tử lại về đây để thăm viếng, lễ chùa và cầu mong những điều tốt lành. 

Một góc chùa bài trí những pho tượng tái hiện hình ảnh Đức Phật Thích Ca hành đạo bên gốc cây bồ đề với nhiều cám dỗ. 

Khu vườn tháp của chùa tràn ngập các loại cây xanh cùng màu sắc rực rỡ của bia mộ. 

Hoạt cảnh Thái tử Tất Đạt Đa cắt tóc xuất gia, biểu tượng của Từ bi, Trí tuệ và Dũng lực được tái hiện trong khuôn viên chùa. 

Khu tháp thờ tự Bồ tát Quan Thế Âm. Mỗi ngày, nhiều phật tử, người dân qua đường thường ghé vào khu tháp để thắp nhang, cầu nguyện. 

Trong chùa còn có khu để tro cốt những người đã khuất với tên gọi "Nạp cốt đường". 

Thành Nguyễn
Chùa Huê Nghiêm, có... 3 ngôi chùa Huê Nghiêm!

Ở riêng tại TPHCM thôi có tới 3 ngôi chùa Huê Nghiêm - đó là những ngôi chùa tôi biết, ngoài ra không biết còn ngôi nào mang tên Huê Nghiêm nữa không.

1.
Chùa Huê Nghiêm tôi muốn kể ở đây còn được gọi là chùa Huê Nghiêm 1 hay Tổ đình Huê Nghiêm. Ngôi chùa này nổi tiếng ở chỗ nó đã được xác định là ngôi chùa cổ nhất TPHCM, xây dựng năm 1721.

Tuy nhiên, chùa đã được trùng tu rất nhiều lần, vào những năm 1960, 1969, 1990, 2003... do đó không còn dáng vẻ xưa nữa. Ảnh dưới đây của Võ văn Tường có lẽ chụp sau 1990.


Tôi tới đây vào một chiều mưa dầm tháng 6/2016 thì thấy ngôi chùa mới và lộng lẫy hơn nữa, ắt là lại vừa được đại trùng tu gần đây.


Mặt tiền chùa

Mặt tiền và mặt bên

Tháp mộ cổ

Đài Quan Âm xây năm 1990

Tượng Phật Thích Ca dưới cây bồ đề, cũng mới được tạo gần đây

Nạp Cốt Đường, nơi để tro cốt người chết

Nếu không biết trước về lịch sử ngôi chùa thì khó mà nghĩ rằng đây là ngôi chùa cổ chứ đừng nói tới việc cổ nhất TPHCM.

Có lẽ cũng vì thế mà dù rằng là ngôi chùa cổ nhất và là nơi xuất phát nhiều vị cao tăng của Phật giáo miền Nam, chùa Huê Nghiêm vẫn không được xếp hạng Di tích. (Những ngôi chùa được xếp hạng Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp quốc gia ở TPHCM là chùa Hội Sơn, chùa Phước Tường, chùa Giác Lâm, chùa Phụng Sơn, chùa Giác Viên, chùa Sắc Tứ Trường Thọ).

Và cũng vì thế bước vào khuôn viên chùa ta không có cảm giác bâng khuâng hoài cổ như bước vào chùa Phước Tường, Hội Sơn, Giác Lâm...

2.
Chùa Huê Nghiêm 2 là ngôi chùa do HT Thích Trí Quảng sáng lập năm 1975.

Chùa tọa lạc ở số 299B đường Lương Định Của, phường Bình Khánh, quận 2, TP. Hồ Chí Minh. Đất chùa ngày nay do Hòa thượng Thích Hồng Tín tạo mãi cho tổ đình Huê Nghiêm, Thủ Đức từ năm 1899. Trước đây, phần đất này dùng để sản xuất lúa gạo cho tổ đình. Sau năm 1975, Hòa thượng Thích Trí Quảng, trưởng tử của Hòa thượng Thích Trí Đức, cố viện chủ tổ đình Huê Nghiêm, đã cho dựng thảo am, rồi xây chùa Huê Nghiêm 2 để tăng chúng và Phật tử có chỗ nghỉ ngơi, tu học. Năm 1998, chùa Huê Nghiêm 2 được chính thức công nhận.

Cách đây vài năm chùa gần như trùng tu mới toàn bộ, thành ngôi đại tự bậc nhất miền Nam. 


3.
Ngôi chùa Huê Nghiêm thứ 3 thường được gọi là Huê Nghiêm thôi, không có thêm số mấy hết. Bởi vì nó không có gì liên quan đến 2 ngôi chùa Huê Nghiêm kia, cũng chẳng nổi tiếng bằng.

Chùa tọa lạc ở số 187/3 đường Trần Kế Xương, quận Phú Nhuận. Chùa được xây dựng 1954, là ngôi chùa Phật giáo Hoa Tông theo phái Huê Nghiêm (Trung Quốc), nên mang tên Huê Nghiêm. 

Chùa Huê Nghiêm. Ảnh Võ văn Tường

Phạm Hoài Nhân
Huê Nghiêm Cổ Tự

Huê Nghiêm cổ tự tọa lạc trên đường Đặng Văn Bi (Quận Thủ Đức) là ngôi chùa cổ xưa nhất ở Tp. Hồ Chí Minh. Chùa là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ cách đây gần 400 năm.

Huê Nghiêm cổ tự được thành lập từ năm 1721 do Tổ Thiệt Thuỵ - Tánh Tường (1681-1757) xây dựng. Tên gọi chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Huê Nghiêm Cổ Tự ban đầu chỉ là một ngôi chùa nhỏ xây cất trên vùng đất thấp, cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên - pháp danh Liễu Đạo đã hiến đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang ở vị trí như hiện nay.

Trải qua gần 400 năm lịch sử, Huê Nghiêm cổ tự là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh như: Thiền sư Tế Giác - Quảng Châu tức Tiên Giác - Hải Tịnh, Thiền sư Đạt Lý - Huệ Lưu, Hòa thượng Thích Từ Văn, Hòa thượng Thích Trí Đức, Hòa thượng Thích Trí Quảng…

Thiền sư Tế Giác - Quảng Châu được xem là vị Tổ quan trọng nhất ở miền Nam vào thế kỷ 19. Năm 1825, vua Minh Mạng (1791-1841) sắc phong chức Tăng cang cho ngài và bổ nhiệm trụ trì chùa Thiên Mụ, Tp. Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Đến đời Thiệu Trị (1807-1847), ngài được cử làm trụ trì chùa Giác Hoàng. Ngài đã giáo dưỡng, đào tạo nhiều nhân tài cho Phật giáo và trở thành Tổ sư của cả ba tông: Lâm Tế Chánh Tông, Lâm Tế Gia Phổ và Tế Thượng Chánh Tông.

Trải qua gần 400 năm lịch sử, Huê Nghiêm Cổ Tự hiện là một di tích Phật giáo quan trọng, nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm.

Tháp cổ ở Huê Nghiêm cổ tự. 

Kiến trúc mô tả hình hoa sen trên những ngôi tháp ở Huê Nghiêm cổ tự.

Các pho tượng tái hiện hình ảnh Đức Phật Thích Ca hành đạo bên gốc cây Bồ đề với nhiều cám dỗ.

Tháp thờ tự Bồ tát Quan Thế Âm.

Nơi để tro cốt của những người đã khuất.

Mái xây theo kiến trúc cổ truyền.

Bài trí tôn nghiêm ở Chánh điện.

Thỉnh chuông chùa tại Huê Nghiêm cổ tự.

Không gian Huê Nghiêm cổ tự trở nên thanh tịnh với khuôn viên chùa có nhiều cây xanh, toả bóng mát. 

Là ngôi chùa có cảnh trí đẹp, đến nay, Huê Nghiêm cổ tự đã qua nhiều lần trùng tu, trong đó lần trùng kiến lớn nhất vào cuối thế kỷ 19 do Thiền sư Đạt Lý - Huệ Lưu tổ chức. Ngày nay, mặt tiền chùa mang dáng vẻ kiến trúc hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền. Mái của gian mặt tiền có cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Mái lợp bằng ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh. Riêng các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Không gian Huê Nghiêm cổ tự càng trở nên thanh tịnh khi khuôn viên chùa có nhiều cây xanh, toả bóng mát bên 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên.

Bên trong Huê Nghiêm cổ tự, trên những hàng cột gỗ có khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” để trang trí. Ở chánh điện, không gian càng trở nên tôn nghiêm nhờ cách bài trí: Chính giữa tôn trí tượng Di Đà Tam Tôn (đức Phật A Di Đà, Bồ tát Quan Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí); bàn thờ kế tiếp thờ Thích Ca Tam Tôn (đức Phật Thích Ca, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền); trước có tượng Thích Ca Đản sanh và bảy vị Phật Dược Sư; bàn thờ hai bên thờ Bồ tát Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn và Bồ tát Di Lặc. Sau điện Phật, có bàn thờ linh vị chư Tổ và bàn thờ bà Nguyễn Thị Hiên (1763-1821) pháp danh Liễu Đạo cùng chư vị Phật tử quá cố.

Vốn là ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Tp. Hồ Chí Minh, Huê Nghiêm cổ tự thường xuyên đón tiếp người dân và du khách trong nước, nước ngoài đến tham quan, chiêm bái. Cứ vào lễ húy kỵ Tổ khai sơn (6/10 âm lịch) và húy kỵ Tổ Huệ Lưu (ngày 12 tháng Giêng âm lịch) hàng năm, hàng nghìn lượt tăng ni, Phật tử ở khắp nơi lại về đây thăm viếng, lễ chùa cầu mong những điều tốt lành...

Bài: Nguyễn Vũ Thành Đạt - Ảnh: Đặng Kim Phương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét