Chùa còn được gọi là chùa Phù Cừ, tọa lạc ở chân núi Bình San, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. ĐT: 077.852191. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Phù Dung (năm 1990)
Chùa Phù Dung (năm 2003)
Sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang (TT. Thích Giác Phước chủ biên, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 2002) cho biết chùa trước đây có tên là Phù Cừ Am Tự, do Tổng trấn Hà Tiên là Mạc Thiên Tích xây dựng vào năm 1750 cho người vợ thứ là bà Thứ Cơ, thế danh Nguyễn Thị Xuân, hiệu là Từ Thành Thục Nhơn, ở tu. Năm 1761, bà qua đời.
Đến năm 1771, chùa bị hư hại nặng do chiến tranh, chỉ còn tòa Ngọc Hoàng Bửu điện. Bấy giờ chùa không có trụ trì.
Năm 1846, Hòa thượng Thích Bửu Châu, từ Trung Quốc đến hành đạo ở vùng Hà Tiên được Phật tử địa phương cung thỉnh về trụ trì ngôi chùa đã được dựng lên sơ sài. Ngài viên tịch tại chùa năm 1869. Nhà nghiên cứu Trương Ngọc Tường cho biết chùa xưa ở núi Nai, được dời về gần mộ bà Phù Cừ thời gian này. Phù Cừ là tên của một giống sen trắng.
Điện Phật (năm 1990)
Điện Phật (năm 2003)
Bàn thờ Tổ
Bàn thờ Bà Phù Cừ
Ba pho tượng cổ
Ngài Diệu Lý (dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 39) được Hòa thượng Thích Nhất Thừa (trụ trì chùa Tây An, Châu Đốc) cử về trụ trì từ năm 1869 đến năm 1892. Hòa thượng Thích Diệu Lý viên tịch, chùa lại không có trụ trì.
Đến năm 1910, Hòa thượng Thích Hoằng Đạo (dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 39), đệ tử của Hòa thượng Thích Nhất Thừa, được cử đến trụ trì. Ngài đã cho xây lại ngôi chùa và đổi tên là chùa Phù Dung. Ngôi chùa hoàn thành vào ngày 7 – 2 năm Kỷ Mão (1939) thì ngài viên tịch, trụ thế 70 năm.
Trụ trì kế tiếp là Hòa thượng Thích Thiền Quang (dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 40), ngài là một nhà sư yêu nước và là một thầy thuốc nổi tiếng trong vùng. Ngài viên tịch năm 1951. Hòa thượng Thích Phước Quang (dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 40) tiếp tục trụ trì đến năm 1964 thì viên tịch tại chùa. 11 năm kế tiếp, nhiều vị về trụ trì chùa, nhưng không vị nào trụ trì được lâu.
Năm 1975, Thượng tọa Thích Nhật Quang (dòng Lâm Tế Gia Phổ đời 41) về trụ trì chùa đến ngày nay. Thượng tọa đã cho trùng tu ngôi chùa trở thành ngôi già lam thắng tích của vùng đất du lịch nổi tiếng Hà Tiên.
Sân trước chùa có tượng đài Bồ tát Quán Thế Âm.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Ở giữa thờ tượng đức Phật Thích Ca (bằng đồng) và hai vị đại đệ tử Ca Diếp, A Nan hai bên. Kế tiếp là tượng đức Phật Thích Ca và tượng Đản sanh. Hai bên vách có gắn 4 bức phù điêu lớn (mỗi tấm cao 1,3m, ngang 2,3m) minh họa bốn Phật tích: Đản sanh, Xuất gia, Thuyết pháp và nhập Niết bàn.
Ở nhà tổ có điện thờ bà Phù Cừ.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Ở giữa thờ tượng đức Phật Thích Ca (bằng đồng) và hai vị đại đệ tử Ca Diếp, A Nan hai bên. Kế tiếp là tượng đức Phật Thích Ca và tượng Đản sanh. Hai bên vách có gắn 4 bức phù điêu lớn (mỗi tấm cao 1,3m, ngang 2,3m) minh họa bốn Phật tích: Đản sanh, Xuất gia, Thuyết pháp và nhập Niết bàn.
Ở nhà tổ có điện thờ bà Phù Cừ.
Điện thờ Ngọc Hoàng
Vườn tháp mộ
Sau chùa, ở chân núi Bình San, có ngôi mộ bà Phù Cừ (1720 – 1761), được người đời gọi là mộ bà Dì Tự. Bà mất vào ngày Rằm tháng hai năm Tân Tỵ. Tương truyền, trước khi lâm chung, bà để lại bài thơ sau:
Xuất xứ trần nê cảnh giới tiền
Ung dương thanh bạch đối viêm thiên
Xuân thu nùng đạm quần phương phố
Cao khiết hà như dạ chiếu liên.
Dịch nghĩa:
Vươn khỏi bùn nhơ thoát vươn lên
Phô lòng trong trắng giữa thiên nhiên
Xuân thu đậm nhạt bao hồng tía
Đừng sánh thanh cao với đóa sen.
Chùa là một danh lam ở Hà Tiên. Hằng ngày, chùa đón tiếp rất nhiều du khách đến chiêm bái.
Lăng Bà Phù Cừ
Ngôi mộ Bà Phù Cừ
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Chùa Phù Dung (Chùa Phù Cừ) – Hà Tiên – Kiên Giang
Chùa Phù Dung còn có một tên gọi khác là chùa Phù Cừ, nằm dưới chân núi Bình San, phường Bình San, thành phố Hà Tiên, Kiên Giang. Là một trong những danh lam cổ tự của miền đất Hà Tiên hiền hòa thơ mộng, chùa Phù Dung không chỉ điểm tô cho non nước cõi biên thùy nét uy nghiêm trầm mặc của một ngôi già lam mà còn làm say lòng du khách bởi phát tích câu chuyện tình diễm lệ của ngài Tổng trấn và “nàng Ái cơ trong chậu úp”.
Chùa Phù Dung gắn liền với sự tích của người nằm trong ngôi mộ cổ đó là bà Phù Dung, mà sau này người đời còn đặt cho một cái tên khác nữa, là bà Dì Tự, vị sư nữ đầu tiên trụ trì ở chùa.
Thực ra giai thoại trên là do dân gian kể theo tiểu thuyết lịch sử Nàng Ái Cơ trong chậu úp của bà Mộng Tuyết. Câu chuyện tóm lược như sau: Mạc Lịnh công tức Tổng binh Đại đô đốc Mạc Thiên Tích có một người vợ thứ tên là Dì Tự “sắc nước hương trời và văn hay chữ tốt”. Mạc Lịnh Công, vì mê sắc đẹp, yêu tài thơ, đã từ chỗ sủng ái mà ra thiên ái. Hóa cho nên, khiến bà chính thất Nguyễn phu nhân ghen giận, lập mưu hãm hại bà thứ cơ.
Một hôm, nhân Mạc Lịnh công bận đi duyệt binh, ở nhà, Nguyễn phu nhân đem nhốt bà thứ vào trong một cái chậu, úp lại cho ngộp mà chết. Bất thình lình, vừa lúc đó trời bỗng đổ mưa to và Mạc Lịnh công cũng vừa về đến. Thấy trời đang mưa mà sao chậu to không ngửa lên hứng nước, ông bèn truyền lệnh giở chậu ra thì phát hiện nàng Dì Tự đang thoi thóp, nhưng may mắn hãy còn cứu kịp. Tuy thoát chết, nhưng Dì Tự trở nên chán chường sự thế, bèn xin Mạc Lịnh công cho phép đi tu. Trước sự tình ngang trái đó, ngài Tổng binh không còn cách nào khác, đành chiều ý, cất một ngôi am tự cho “Ái cơ” của mình tu hành. Bên am tự, ngài cho đào ao, trồng hoa sen trắng, để kỷ niệm mối tình xưa. Đến khi bà qua đời, Mạc Lịnh công cho xây ngôi mộ kiên cố, cấu trúc theo hình cái chậu để tỏ lòng tưởng nhớ đến giai nhân đã vì ông mà phải chịu oan ức, khổ ải… Ngôi am tự đó về sau trở thành Phù Dung Tự.
Dù còn có những ý kiến khác nhau, thậm chí còn có ý kiến cho rằng, chuyện tình của Mạc Tổng trấn và nàng Ái Cơ Phù Cừ chỉ là hư cấu của những văn sĩ, nhưng hầu hết người dân Hà Tiên đều thuộc lòng và tin rằng đó là chuyện tình đẹp, có thật, gắn liền với công cuộc khai mở đất Hà Tiên.
Câu chuyện tình lịch sử thấm đẫm văn chương và nước mắt giữa Mạc Tổng trấn và Ái Cơ Phù Cừ từ đó trở đi là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm truyện, tuồng và thơ. Năm 1959, nhà văn, nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà viết vở cải lương “Áo cưới trước cổng chùa” theo tác phẩm “Nàng Ái Cơ trong chậu úp” của nữ sĩ Mộng Tuyết. Vở cải lương đã thu hút không biết bao nhiêu con tim của khán thính giả thời bấy giờ.
Vãn cảnh Phù Dung cổ tự, nghe kể lại câu chuyện tình lãng mạn và cảm động, tìm lại dấu xưa của đất Hà Tiên làm cho chuyến du hành thêm phần thú vị.
Trải qua bao người trụ trì, giờ đây hiện nay ngôi chùa khang trang này được hoàn chỉnh với sân và hai phần thờ tách biệt.
Trước sân chùa là một đài cao trên có pho tượng Phật Quan Thế Âm cao chừng 4 m bằng xi măng, sơn trắng. Kế đến là chính điện được bài trí trang nghiêm: chính giữa là tượng Thích ca Mâu ni, hai bên là hai đại đệ tử Anan và Ca diếp.
Ở đây còn có 4 bức phù điêu lớn (mỗi tấm cao 1,3 m, ngang 2,3 m) minh họa 4 cảnh đức Phật đản sanh, xuất gia, thuyết pháp và nhập niết bàn.
Sau lưng ngôi chính điện, qua một khoảng sân nhỏ, du khách sẽ gặp một tòa lầu gác cao hai tầng có tên gọi “Ngọc Hoàng bửu điện”, nơi đây thờ Ngọc Hoàng thượng đế cùng hai vị Nam Tào và Bắc Đẩu.
Phía bên trái chùa Phù Dung có một lối nhỏ men theo triền núi. Đi khoảng 20 m sẽ gặp một ngôi mộ cổ nằm tựa lưng vào vách núi giữa rừng cây cao vút, mát mẻ, u tịch. Trên bia mộ có nhiều dòng chữ Hán. Bên cạnh mộ, có một tấm bia đá khắc chữ Việt ghi: Lăng bà Phù Dung – Từ Thành Thục Nhơn – Nguyễn Thị Xuân (1720-1761) – viên tịch rằm tháng 2 Âl – Hiệu Phù Cừ.
Dù rằng hiện thời việc bàn cãi về lịch sử chùa Phù Dung vẫn chưa ngã ngũ nhưng với người dân Hà Tiên và với những ai có biết qua câu chuyện tình buồn nơi xứ thơ cũng ít nhiều ai hoài niềm xúc cảm như người xưa mỗi khi có dịp du lịch Hà Tiên dừng chân chiêm bái ngôi cổ tự.
Cổng chùa
Chùa Phù Dung gắn liền với sự tích của người nằm trong ngôi mộ cổ đó là bà Phù Dung, mà sau này người đời còn đặt cho một cái tên khác nữa, là bà Dì Tự, vị sư nữ đầu tiên trụ trì ở chùa.
Thực ra giai thoại trên là do dân gian kể theo tiểu thuyết lịch sử Nàng Ái Cơ trong chậu úp của bà Mộng Tuyết. Câu chuyện tóm lược như sau: Mạc Lịnh công tức Tổng binh Đại đô đốc Mạc Thiên Tích có một người vợ thứ tên là Dì Tự “sắc nước hương trời và văn hay chữ tốt”. Mạc Lịnh Công, vì mê sắc đẹp, yêu tài thơ, đã từ chỗ sủng ái mà ra thiên ái. Hóa cho nên, khiến bà chính thất Nguyễn phu nhân ghen giận, lập mưu hãm hại bà thứ cơ.
Chùa nằm dưới chân núi Bình San
Một hôm, nhân Mạc Lịnh công bận đi duyệt binh, ở nhà, Nguyễn phu nhân đem nhốt bà thứ vào trong một cái chậu, úp lại cho ngộp mà chết. Bất thình lình, vừa lúc đó trời bỗng đổ mưa to và Mạc Lịnh công cũng vừa về đến. Thấy trời đang mưa mà sao chậu to không ngửa lên hứng nước, ông bèn truyền lệnh giở chậu ra thì phát hiện nàng Dì Tự đang thoi thóp, nhưng may mắn hãy còn cứu kịp. Tuy thoát chết, nhưng Dì Tự trở nên chán chường sự thế, bèn xin Mạc Lịnh công cho phép đi tu. Trước sự tình ngang trái đó, ngài Tổng binh không còn cách nào khác, đành chiều ý, cất một ngôi am tự cho “Ái cơ” của mình tu hành. Bên am tự, ngài cho đào ao, trồng hoa sen trắng, để kỷ niệm mối tình xưa. Đến khi bà qua đời, Mạc Lịnh công cho xây ngôi mộ kiên cố, cấu trúc theo hình cái chậu để tỏ lòng tưởng nhớ đến giai nhân đã vì ông mà phải chịu oan ức, khổ ải… Ngôi am tự đó về sau trở thành Phù Dung Tự.
Nơi thờ bà Phù Dung
Dù còn có những ý kiến khác nhau, thậm chí còn có ý kiến cho rằng, chuyện tình của Mạc Tổng trấn và nàng Ái Cơ Phù Cừ chỉ là hư cấu của những văn sĩ, nhưng hầu hết người dân Hà Tiên đều thuộc lòng và tin rằng đó là chuyện tình đẹp, có thật, gắn liền với công cuộc khai mở đất Hà Tiên.
Câu chuyện tình lịch sử thấm đẫm văn chương và nước mắt giữa Mạc Tổng trấn và Ái Cơ Phù Cừ từ đó trở đi là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm truyện, tuồng và thơ. Năm 1959, nhà văn, nhà thơ Kiên Giang Hà Huy Hà viết vở cải lương “Áo cưới trước cổng chùa” theo tác phẩm “Nàng Ái Cơ trong chậu úp” của nữ sĩ Mộng Tuyết. Vở cải lương đã thu hút không biết bao nhiêu con tim của khán thính giả thời bấy giờ.
Những chiếc đèn lồng trang trí đẹp mắt
Vãn cảnh Phù Dung cổ tự, nghe kể lại câu chuyện tình lãng mạn và cảm động, tìm lại dấu xưa của đất Hà Tiên làm cho chuyến du hành thêm phần thú vị.
Trải qua bao người trụ trì, giờ đây hiện nay ngôi chùa khang trang này được hoàn chỉnh với sân và hai phần thờ tách biệt.
Trước sân chùa là một đài cao trên có pho tượng Phật Quan Thế Âm cao chừng 4 m bằng xi măng, sơn trắng. Kế đến là chính điện được bài trí trang nghiêm: chính giữa là tượng Thích ca Mâu ni, hai bên là hai đại đệ tử Anan và Ca diếp.
Tượng Phật Quan Thế Âm trước sân chùa
Ở đây còn có 4 bức phù điêu lớn (mỗi tấm cao 1,3 m, ngang 2,3 m) minh họa 4 cảnh đức Phật đản sanh, xuất gia, thuyết pháp và nhập niết bàn.
Bên trong chính điện
Sau lưng ngôi chính điện, qua một khoảng sân nhỏ, du khách sẽ gặp một tòa lầu gác cao hai tầng có tên gọi “Ngọc Hoàng bửu điện”, nơi đây thờ Ngọc Hoàng thượng đế cùng hai vị Nam Tào và Bắc Đẩu.
Ngọc Hoàng bửu điện
Phía bên trái chùa Phù Dung có một lối nhỏ men theo triền núi. Đi khoảng 20 m sẽ gặp một ngôi mộ cổ nằm tựa lưng vào vách núi giữa rừng cây cao vút, mát mẻ, u tịch. Trên bia mộ có nhiều dòng chữ Hán. Bên cạnh mộ, có một tấm bia đá khắc chữ Việt ghi: Lăng bà Phù Dung – Từ Thành Thục Nhơn – Nguyễn Thị Xuân (1720-1761) – viên tịch rằm tháng 2 Âl – Hiệu Phù Cừ.
Ngôi mộ cổ
Dù rằng hiện thời việc bàn cãi về lịch sử chùa Phù Dung vẫn chưa ngã ngũ nhưng với người dân Hà Tiên và với những ai có biết qua câu chuyện tình buồn nơi xứ thơ cũng ít nhiều ai hoài niềm xúc cảm như người xưa mỗi khi có dịp du lịch Hà Tiên dừng chân chiêm bái ngôi cổ tự.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét