Chùa Thiên Ấn tọa lạc trên núi Thiên Ấn, thuộc xã Tịnh Ấn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Chùa nằm phía Bắc sông Trà Khúc, cách thị xã Quảng Ngãi khoảng 3 km. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Một góc chùa
Giếng chùa
Cây cổ thụ
Núi Thiên Ấn xưa kia có tên là núi Hó, cao khoảng 105m, đỉnh núi bằng phẳng, rộng độ 10ha. Từ phía Đông nhìn lên, núi trông giống như cái ấn trên sông. Xưa kia, ở núi có nhiều đá son dùng mài mực son chấm quyển chữ Nho. Từ thời Nguyễn, Thiên Ấn đã được liệt vào hàng danh thắng.
Chùa do Thiền sư Pháp Hóa khai sơn vào khoảng cuối thế kỉ XVII. Ngài tên là Lê Diệt, người Phúc Kiến, hiệu là Minh Hải Phật Bảo, sinh năm 1670, đã trụ trì chùa trong 60 năm. Bên cạnh chùa có một giếng nước sâu 21m, đường kính miệng giếng 2m, nước mát ngọt, là công trình của nhà sư. Núi cao, đá cứng, thiếu dụng cụ, nhưng ngài vẫn kiên trì đào giếng suốt bốn năm ròng. Một hôm, có vị tăng trẻ đến phát nguyện cùng đào giếng với nhà sư. Ba tháng sau, họ mới chuyển được một tảng đá chắn ngang, từ đó, mạch nước mới tuôn ra. Nhưng đó là lúc vị sư trẻ đi biệt tích. Ngài viên tịch vào năm 1754.
Sân trong chùa
Tam quan chùa
Mặt tiền chùa
Chùa Thiên Ấn
Các ngài kế thế trụ trì là: Thiệt Ý Khánh Vân, Toàn Chiếu Bảo Ấn, Chương Khước Giác Tánh, Ấn Tham Hoằng Phúc, Chơn Trung Diệu Quang, Như Lợi Huyền Đạt, Hạnh Trình.
Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chùa còn giữ được nhiều pho tượng cổ. Đại hồng chung ở chùa nổi tiếng là linh thiêng. Theo tư liệu của nhà chùa, quả chuông này cao 2m, đường kính miêng chuông 0,7m, được dân làng Chí Tượng đúc cho chùa nhưng đánh không kêu. Năm 1845, Thiền sư Bảo Ấn đang tham thiền thì thấy một vị Hộ Pháp tới bảo thỉnh quả chuông ấy về. Trong ngày lễ khai chuông, ngài đã chú nguyện, và sau đó, đánh tiếng chuông ngân nga khắp vùng. Chùa được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch “Sắc tứ Thiên Ấn Tự” vào năm 1716.
Tượng đức Phật ở chánh điện
Năm 1947, chùa bị hỏng hoàn toàn. Ngôi chùa ngày nay được xây dựng từ năm 1959, hoàn thành năm 1961. Chùa được trùng tu vào các năm 1992 – 1993 và năm 2000 – 2001.
Thiên Ấn là ngôi cổ tự danh tiếng của miền Trung. Một trong những bài thơ nổi tiếng viết về chùa là bài Vịnh Thiên Ấn niêm hà của Nguyễn Cư Trinh (1716 – 1767). Bài thơ có đoạn:
Phong cảnh nơi đây thật rất xinh
Niêm hà có ấn của trời sinh
Xem kia dấu tích còn vuông vức
Nhận lại non sông rõ dạng hình.
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Chiêm bái cổ tự có “chuông Thần, giếng Phật” nơi xứ Quảng
Chùa Thiên Ấn được xây dựng cuối thế kỷ 17 trên ngọn núi cùng tên bên bờ sông Trà Khúc gắn với nhiều huyền thoại lịch sử của miền đất Quảng Ngãi giàu truyền thống văn hóa, cách mạng.
Ngôi chùa cổ niên đại trên 300 năm
Nằm ở độ cao khoảng 100 m trên đỉnh núi Thiên Ấn, chùa Thiên Ấn thuộc địa phận xã Tịnh Ấn Đông, TP Quảng Ngãi. Ngôi cổ tự được ôm trọn bởi cánh rừng xanh mướt rộng khoảng một hecta. Theo lịch sử ngôi chùa, chùa được xây dựng vào năm 1694, hoàn thành vào cuối năm 1695 và là một trong những ngôi nhà chùa cổ nhất Quảng Ngãi với niên đại trên 300 năm tuổi.
Tương truyền, cánh rừng và ngọn núi Thiên Ấn xưa kia rậm rạp hiểm trở, là nơi trú ẩn của nhiều thú dữ như cọp, beo… Người dân sợ thú dữ ăn thịt nên mỗi khi đi rừng thường đi thành đoàn để tiện bảo vệ nhau và họ không dám bén mảng lên núi mà chỉ quanh quẩn nhặt củi, kiếm sản vật dưới chân núi.
Thế rồi một hôm, đoàn người đi rừng bỗng phát hiện có một con đường mòn dẫn lên núi Thiên Ấn chứng tỏ có vết tích người sống trên đỉnh núi hiểm trở này. Tò mò men theo vết chân, họ bắt gặp một thiền sư.
Thì ra bao năm nay vị sư đã ẩn mình trên núi, nương vào nước suối thanh tịnh và hoa trái của núi rừng để tĩnh tâm tu tập trên đỉnh Thiên Ấn. Đó là thiền sư Pháp Hóa - vị tổ sư đã dựng thảo am trên đỉnh Thiên Ấn để tu thiền.
"Ở ngài toát lên lòng từ bi và trí huệ, ngài đã giảng cho người dân về đạo Phật và lẽ nhân sinh. Càng về sau nhiều người dân đến thảo am để nghe giảng Phật pháp", Hòa thượng Thích Đồng Hoàng - Phó trụ trì chùa Thiên Ấn kể bằng lòng thành kính. Danh tiếng ngôi chùa và vị thiền sư lan truyền đến chúa Nguyễn Phúc Chu, một người sùng đạo Phật. Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc Tứ Thiên Ấn tự”.
Kỳ lạ chuông Thần, giếng Phật
Trong chùa Thiên Ân hiện có một bảo pháp quý giá là đại hồng chung còn gọi là chuông thần. Chuông này được đúc ở làng Chí Tượng, nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi. Tương truyền, quả chuông này đúc xong, đánh không kêu. Năm 1845, thiền sư Bảo Ấn, tổ sư thứ ba của chùa đang thiền thì thấy có một vị hộ pháp báo mộng tới làng Chí Tượng thỉnh quả chuông về. Sau thiền sư cầu nguyện, bỗng nhiên tiếng chuông thỉnh lên vang vọng khắp cả vùng. Từ đó người dân gọi đây là chuông thần.
Ngoài chuông thần, trong chùa Thiên Ấn còn có huyền tích về “giếng Phật". Cũng giống như chuông thần, dấu tích giếng Phật hiện nay vẫn còn với nét kiến trúc rêu phong, cổ kính. Người dân kể lại, ngược dòng thời gian vào ba thế kỷ trước, dù núi rừng hiểm trở, đi lại khó khăn nhưng vì nghe danh tiếng ngôi chùa linh thiêng cũng như cảm phục tài năng, đức độ của vị thiền sư nên phật tử lên núi ngày càng đông, vị sư trụ trì đã nghĩ cách đào giếng trên đỉnh núi để dân có nước uống.
Nhà sư được báo mộng khi đào ở phía đông chùa sẽ gặp tảng đá bàn, dưới tảng đá này sẽ có nước. Nhưng việc cạy tảng đá rất khó khăn, may thay đúng lúc đó có một vị sự trẻ đến chùa nói sẽ giúp việc đào giếng. Khi mạch nước ngầm phun lên, vị sư già vục mặt, uống thỏa thích, bình tâm lại thì không thấy vì sư trẻ đâu cả. Thì ra đó chính là thần tiên hiện về giúp lão thiền sư. Về sau dân gian lưu truyền hai câu thơ: “Ông thầy đào giếng trên non/ Đến khi có nước không còn tăm hơi”. Giếng ấy được người dân gọi là giếng Tiên.
Ngôi chùa với lịch sử 300 năm tuổi đã trải qua những thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, trải qua bom đạn chiến tranh nhưng cơ bản vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, cổ xưa. Với bề dầy truyền thống lịch sử văn hóa, Chùa Thiên Ấn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1990.
Chùa Thiên Ấn hiện nay được tôn tạo lại trên nền ngôi cổ tự xưa kia, tương truyền chính là thảo am xưa kia nơi Pháp Hóa thiền sư tu hành. Đi quan cổng tam quan được thiết kế đẹp mắt với nghệ thuật khá cầu kỳ như rồng chầu mặt nguyệt, cửa cuốn mái vòm, phía trên có thần Hộ Pháp trấn cửa, bạn sẽ bước vào không gian văn hóa tâm linh đặc sắc, thanh tịnh mà vẫn thoáng đãng.
Trong khuôn viên chùa có rất nhiều cây cổ thụ, các loại kỳ hoa dị thảo khiến du khách có cảm giác tĩnh tâm, thư thái. Một bức tượng Phật lớn an tọa dưới gốc cây bồ đề trăm năm tuổi là nơi lắng nghe tất cả những tâm nguyện của nhân gian.
Sau chùa có một vườn mộ tháp là nơi an táng của các vị sư tổ, thiền sư trụ trì với những ngôi bửu tháp có hình hoa sen được xây dựng ở phía đông trong khuôn viên chùa. Sau khi cúng Phật và vãng cảnh chùa, du khách đừng quên tham quan vườn mộ tháp để thành tâm tưởng nhớ những bậc thiền sư đã dầy công tu tập và gây dựng lên ngôi chùa Thiên Ấn với không gian văn hóa tâm linh đặc sắc này.
Toàn cảnh chùa Thiên Ấn (ảnh internet).
Ngôi chùa cổ niên đại trên 300 năm
Nằm ở độ cao khoảng 100 m trên đỉnh núi Thiên Ấn, chùa Thiên Ấn thuộc địa phận xã Tịnh Ấn Đông, TP Quảng Ngãi. Ngôi cổ tự được ôm trọn bởi cánh rừng xanh mướt rộng khoảng một hecta. Theo lịch sử ngôi chùa, chùa được xây dựng vào năm 1694, hoàn thành vào cuối năm 1695 và là một trong những ngôi nhà chùa cổ nhất Quảng Ngãi với niên đại trên 300 năm tuổi.
Tương truyền, cánh rừng và ngọn núi Thiên Ấn xưa kia rậm rạp hiểm trở, là nơi trú ẩn của nhiều thú dữ như cọp, beo… Người dân sợ thú dữ ăn thịt nên mỗi khi đi rừng thường đi thành đoàn để tiện bảo vệ nhau và họ không dám bén mảng lên núi mà chỉ quanh quẩn nhặt củi, kiếm sản vật dưới chân núi.
Tam quan ngôi chùa.
Thế rồi một hôm, đoàn người đi rừng bỗng phát hiện có một con đường mòn dẫn lên núi Thiên Ấn chứng tỏ có vết tích người sống trên đỉnh núi hiểm trở này. Tò mò men theo vết chân, họ bắt gặp một thiền sư.
Thì ra bao năm nay vị sư đã ẩn mình trên núi, nương vào nước suối thanh tịnh và hoa trái của núi rừng để tĩnh tâm tu tập trên đỉnh Thiên Ấn. Đó là thiền sư Pháp Hóa - vị tổ sư đã dựng thảo am trên đỉnh Thiên Ấn để tu thiền.
Bức tượng Đức Phật dưới tán bồ đề bên cánh rừng trăm tuổi lắng nghe cầu nguyện của muôn nỗi nhân gian.
"Ở ngài toát lên lòng từ bi và trí huệ, ngài đã giảng cho người dân về đạo Phật và lẽ nhân sinh. Càng về sau nhiều người dân đến thảo am để nghe giảng Phật pháp", Hòa thượng Thích Đồng Hoàng - Phó trụ trì chùa Thiên Ấn kể bằng lòng thành kính. Danh tiếng ngôi chùa và vị thiền sư lan truyền đến chúa Nguyễn Phúc Chu, một người sùng đạo Phật. Năm 1717, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc Tứ Thiên Ấn tự”.
Kỳ lạ chuông Thần, giếng Phật
Trong chùa Thiên Ân hiện có một bảo pháp quý giá là đại hồng chung còn gọi là chuông thần. Chuông này được đúc ở làng Chí Tượng, nay là xã Đức Hiệp, huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi. Tương truyền, quả chuông này đúc xong, đánh không kêu. Năm 1845, thiền sư Bảo Ấn, tổ sư thứ ba của chùa đang thiền thì thấy có một vị hộ pháp báo mộng tới làng Chí Tượng thỉnh quả chuông về. Sau thiền sư cầu nguyện, bỗng nhiên tiếng chuông thỉnh lên vang vọng khắp cả vùng. Từ đó người dân gọi đây là chuông thần.
Quả chuông được mệnh danh chuông thần chùa Thiên Ân.
Ngoài chuông thần, trong chùa Thiên Ấn còn có huyền tích về “giếng Phật". Cũng giống như chuông thần, dấu tích giếng Phật hiện nay vẫn còn với nét kiến trúc rêu phong, cổ kính. Người dân kể lại, ngược dòng thời gian vào ba thế kỷ trước, dù núi rừng hiểm trở, đi lại khó khăn nhưng vì nghe danh tiếng ngôi chùa linh thiêng cũng như cảm phục tài năng, đức độ của vị thiền sư nên phật tử lên núi ngày càng đông, vị sư trụ trì đã nghĩ cách đào giếng trên đỉnh núi để dân có nước uống.
Nhà sư được báo mộng khi đào ở phía đông chùa sẽ gặp tảng đá bàn, dưới tảng đá này sẽ có nước. Nhưng việc cạy tảng đá rất khó khăn, may thay đúng lúc đó có một vị sự trẻ đến chùa nói sẽ giúp việc đào giếng. Khi mạch nước ngầm phun lên, vị sư già vục mặt, uống thỏa thích, bình tâm lại thì không thấy vì sư trẻ đâu cả. Thì ra đó chính là thần tiên hiện về giúp lão thiền sư. Về sau dân gian lưu truyền hai câu thơ: “Ông thầy đào giếng trên non/ Đến khi có nước không còn tăm hơi”. Giếng ấy được người dân gọi là giếng Tiên.
Dấu tích giếng tiên.
Ngôi chùa với lịch sử 300 năm tuổi đã trải qua những thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, trải qua bom đạn chiến tranh nhưng cơ bản vẫn giữ được nét đẹp truyền thống, cổ xưa. Với bề dầy truyền thống lịch sử văn hóa, Chùa Thiên Ấn đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1990.
Chùa Thiên Ấn hiện nay được tôn tạo lại trên nền ngôi cổ tự xưa kia, tương truyền chính là thảo am xưa kia nơi Pháp Hóa thiền sư tu hành. Đi quan cổng tam quan được thiết kế đẹp mắt với nghệ thuật khá cầu kỳ như rồng chầu mặt nguyệt, cửa cuốn mái vòm, phía trên có thần Hộ Pháp trấn cửa, bạn sẽ bước vào không gian văn hóa tâm linh đặc sắc, thanh tịnh mà vẫn thoáng đãng.
Vườn mộ tháp trong khuôn viên chùa.
Trong khuôn viên chùa có rất nhiều cây cổ thụ, các loại kỳ hoa dị thảo khiến du khách có cảm giác tĩnh tâm, thư thái. Một bức tượng Phật lớn an tọa dưới gốc cây bồ đề trăm năm tuổi là nơi lắng nghe tất cả những tâm nguyện của nhân gian.
Sau chùa có một vườn mộ tháp là nơi an táng của các vị sư tổ, thiền sư trụ trì với những ngôi bửu tháp có hình hoa sen được xây dựng ở phía đông trong khuôn viên chùa. Sau khi cúng Phật và vãng cảnh chùa, du khách đừng quên tham quan vườn mộ tháp để thành tâm tưởng nhớ những bậc thiền sư đã dầy công tu tập và gây dựng lên ngôi chùa Thiên Ấn với không gian văn hóa tâm linh đặc sắc này.
Diệu Minh (t/h)
Chuông thần và giếng Phật
Thiên Ấn (ở xã Tịnh Ấn, H.Sơn Tịnh, Quảng Ngãi) là một trong những ngôi cổ tự nổi tiếng của nước ta, nằm trên đỉnh núi cùng tên, với những câu chuyện ly kỳ về chuông thần và giếng Phật.
Một góc chùa Thiên Ấn - Ảnh: Xuân Khánh
Cổ tự trên đỉnh Thiên Ấn
Trong cuốn 12 thắng cảnh Quảng Ngãi của tác giả Lê Hồng Khánh có đoạn miêu tả núi Thiên Ấn: “Núi cao 106 m, trông từ 4 phía đều tựa hình thang cân. Vào mùa nước đầy, nhìn từ bờ bắc, dòng nước sông Trà Khúc chảy theo hướng tây nam - đông bắc, như dồn vào chân núi; rồi lại từ chân núi, theo hướng tây bắc - đông nam, đổ về cửa Đại. Giữa một thiên nhiên thoáng đãng, ngọn núi như chiếc ấn của trời cao niêm xuống dòng sông xanh, nên người xưa còn gọi là Thiên Ấn niêm hà. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), núi được liệt vào hàng danh sơn và ghi vào điển tịch”. Với đặc điểm như thế, trong tâm thức người Quảng Ngãi, núi Thiên Ấn và dòng Trà Khúc là biểu tượng sơn thủy thiêng liêng. Điều này lý giải vì sao chùa Thiên Ấn rất nổi tiếng từ hàng trăm năm qua dù kiến trúc không có gì nổi bật.
Hòa thượng Thích Hạnh Trình, trụ trì chùa Thiên Ấn, cho biết chùa được khởi công xây dựng vào năm 1694, một năm sau thì hoàn thành. Tổ khai sơn chùa là thiền sư Pháp Hóa, người Phúc Kiến (Trung Hoa), thuộc dòng thiền Lâm Tế. Vào đời Lê Dụ Tông (năm Vĩnh Thịnh thứ 11, năm 1717), chúa Nguyễn Phúc Chu, vì rất sùng đạo, đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc Tứ Thiên Ấn Tự”. Cũng năm đó, chùa trùng tu lần thứ nhất, rồi tiếp tục trùng tu vào các năm 1827, 1910, 1918, 1959, như vậy đến nay chùa đã 5 lần trùng tu. Gần 320 năm từ ngày khai lập đến nay, chùa đã qua 15 đời trụ trì, trong đó có 6 vị được suy tôn là sư tổ, thường được gọi là lục tổ.
Khuôn viên chùa khá rộng với hai bên là rừng cây, đặc biệt là khu viên mộ, nơi an táng của các vị tổ sư và thiền sư trụ trì ở phía tay trái chùa. Những ngôi bửu tháp nhuốm màu rêu phong như tôn thêm vẻ linh thiêng của chùa. Theo hòa thượng Thích Hạnh Trình, những ngôi bửu tháp nhiều tầng này được xây theo số lẻ với hình hoa sen gắn liền tháp. Đây là nơi chôn giữ di hài, cùng bia ghi công đức của các bậc tổ sư, trụ trì...
Truyền thuyết về chuông và giếng
Ngoài những điều linh thiêng được truyền tụng vốn có, chùa Thiên Ấn còn có nhiều câu chuyện nhuốm màu thần thoại quanh chuông thần và giếng Phật. Phía trước, bên trái chính điện chùa có treo một quả đại hồng chung, gọi là chuông thần. Nguồn gốc của quả chuông này từ làng Chí Tượng (nay là xã Đức Hiệp, H.Mộ Đức), khi dân đúc xong thì đánh không kêu.
Tương truyền vào năm 1845, tổ sư thứ ba của chùa Thiên Ấn là thiền sư Bảo Ấn, khi ngài đang thiền thì thấy có một vị hộ pháp bảo tới làng Chí Tượng thỉnh quả chuông về. Kỳ lạ thay, khi được thỉnh về chùa, sau khi cầu nguyện, thiền sư Bảo Ấn gióng thì chuông phát ra tiếng kêu. Lại có lời kể tương tự trên, sau mỗi lần dân Chí Tượng đúc chuông mà đánh không kêu, thì thiền sư Bảo Ấn đến xin thỉnh chuông. Dân không đồng ý, đúc đến cái thứ ba mà kết quả vẫn như cũ, họ mới đồng ý cho thiền sư thỉnh chuông về chùa. Ngay lần đánh đầu tiên, tiếng chuông đã ngân vang khắp cả vùng.
Cách chuông thần không xa về phía đông là giếng Phật. Có câu: “Ông thầy đào giếng trên non/Đến khi có nước không còn tăm hơi” để nói về câu chuyện nhà sư đào giếng. Chuyện kể rằng giếng Phật là giếng mở nguồn cho sự sống ở vùng núi Thiên Ấn, phải mất 20 năm mới hoàn thành. Khi đào đã khá sâu, các nhà sư hy vọng sắp có được nước nhưng rồi thất vọng khi gặp phải tảng đá to lớn chắn ngang. Đêm ngủ, những vị sư này được báo mộng là dưới tảng đá sẽ có nguồn nước. Sáng hôm sau, các vị sư đã cố cạy tảng đá, khi việc thành thì một nguồn nước lớn phun từ dưới lên, đó cũng là lúc các vị sư tan biến vào dòng nước.
Cũng có chuyện, một vị sư trụ trì (không rõ danh tính) đào giếng để lấy nước dùng. Ban đầu công việc suôn sẻ, nhưng đến khi gặp lớp đá thì vô cùng khó khăn. Hôm nọ, có một nhà sư trẻ đến viếng chùa và xin phép ngài trụ trì được giúp sức. Ngày qua tháng lại, một sư già một sư trẻ cứ miệt mài đục đá để đào giếng. Đục mãi, cuối cùng cũng bắt được mạch giếng. Vị sư già vô cùng sung sướng vục mặt vào mạch nước uống thỏa thích, đến khi bình tâm lại thì không thấy sư trẻ đâu cả. Đêm ngủ, ngài được báo mộng là có Phật giúp đỡ, nên mới có tên là giếng Phật.
Hòa thượng Thích Hạnh Trình cho biết giếng sâu khoảng 21 m, đường kính hơn 2 m, được xây bằng đá ong rất đẹp mắt. Là điểm đến của những người viếng chùa.
Trong cuốn 12 thắng cảnh Quảng Ngãi của tác giả Lê Hồng Khánh có đoạn miêu tả núi Thiên Ấn: “Núi cao 106 m, trông từ 4 phía đều tựa hình thang cân. Vào mùa nước đầy, nhìn từ bờ bắc, dòng nước sông Trà Khúc chảy theo hướng tây nam - đông bắc, như dồn vào chân núi; rồi lại từ chân núi, theo hướng tây bắc - đông nam, đổ về cửa Đại. Giữa một thiên nhiên thoáng đãng, ngọn núi như chiếc ấn của trời cao niêm xuống dòng sông xanh, nên người xưa còn gọi là Thiên Ấn niêm hà. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), núi được liệt vào hàng danh sơn và ghi vào điển tịch”. Với đặc điểm như thế, trong tâm thức người Quảng Ngãi, núi Thiên Ấn và dòng Trà Khúc là biểu tượng sơn thủy thiêng liêng. Điều này lý giải vì sao chùa Thiên Ấn rất nổi tiếng từ hàng trăm năm qua dù kiến trúc không có gì nổi bật.
Hòa thượng Thích Hạnh Trình, trụ trì chùa Thiên Ấn, cho biết chùa được khởi công xây dựng vào năm 1694, một năm sau thì hoàn thành. Tổ khai sơn chùa là thiền sư Pháp Hóa, người Phúc Kiến (Trung Hoa), thuộc dòng thiền Lâm Tế. Vào đời Lê Dụ Tông (năm Vĩnh Thịnh thứ 11, năm 1717), chúa Nguyễn Phúc Chu, vì rất sùng đạo, đã ban cho chùa biển ngạch “Sắc Tứ Thiên Ấn Tự”. Cũng năm đó, chùa trùng tu lần thứ nhất, rồi tiếp tục trùng tu vào các năm 1827, 1910, 1918, 1959, như vậy đến nay chùa đã 5 lần trùng tu. Gần 320 năm từ ngày khai lập đến nay, chùa đã qua 15 đời trụ trì, trong đó có 6 vị được suy tôn là sư tổ, thường được gọi là lục tổ.
Khuôn viên chùa khá rộng với hai bên là rừng cây, đặc biệt là khu viên mộ, nơi an táng của các vị tổ sư và thiền sư trụ trì ở phía tay trái chùa. Những ngôi bửu tháp nhuốm màu rêu phong như tôn thêm vẻ linh thiêng của chùa. Theo hòa thượng Thích Hạnh Trình, những ngôi bửu tháp nhiều tầng này được xây theo số lẻ với hình hoa sen gắn liền tháp. Đây là nơi chôn giữ di hài, cùng bia ghi công đức của các bậc tổ sư, trụ trì...
Truyền thuyết về chuông và giếng
Ngoài những điều linh thiêng được truyền tụng vốn có, chùa Thiên Ấn còn có nhiều câu chuyện nhuốm màu thần thoại quanh chuông thần và giếng Phật. Phía trước, bên trái chính điện chùa có treo một quả đại hồng chung, gọi là chuông thần. Nguồn gốc của quả chuông này từ làng Chí Tượng (nay là xã Đức Hiệp, H.Mộ Đức), khi dân đúc xong thì đánh không kêu.
Tương truyền vào năm 1845, tổ sư thứ ba của chùa Thiên Ấn là thiền sư Bảo Ấn, khi ngài đang thiền thì thấy có một vị hộ pháp bảo tới làng Chí Tượng thỉnh quả chuông về. Kỳ lạ thay, khi được thỉnh về chùa, sau khi cầu nguyện, thiền sư Bảo Ấn gióng thì chuông phát ra tiếng kêu. Lại có lời kể tương tự trên, sau mỗi lần dân Chí Tượng đúc chuông mà đánh không kêu, thì thiền sư Bảo Ấn đến xin thỉnh chuông. Dân không đồng ý, đúc đến cái thứ ba mà kết quả vẫn như cũ, họ mới đồng ý cho thiền sư thỉnh chuông về chùa. Ngay lần đánh đầu tiên, tiếng chuông đã ngân vang khắp cả vùng.
Cách chuông thần không xa về phía đông là giếng Phật. Có câu: “Ông thầy đào giếng trên non/Đến khi có nước không còn tăm hơi” để nói về câu chuyện nhà sư đào giếng. Chuyện kể rằng giếng Phật là giếng mở nguồn cho sự sống ở vùng núi Thiên Ấn, phải mất 20 năm mới hoàn thành. Khi đào đã khá sâu, các nhà sư hy vọng sắp có được nước nhưng rồi thất vọng khi gặp phải tảng đá to lớn chắn ngang. Đêm ngủ, những vị sư này được báo mộng là dưới tảng đá sẽ có nguồn nước. Sáng hôm sau, các vị sư đã cố cạy tảng đá, khi việc thành thì một nguồn nước lớn phun từ dưới lên, đó cũng là lúc các vị sư tan biến vào dòng nước.
Cũng có chuyện, một vị sư trụ trì (không rõ danh tính) đào giếng để lấy nước dùng. Ban đầu công việc suôn sẻ, nhưng đến khi gặp lớp đá thì vô cùng khó khăn. Hôm nọ, có một nhà sư trẻ đến viếng chùa và xin phép ngài trụ trì được giúp sức. Ngày qua tháng lại, một sư già một sư trẻ cứ miệt mài đục đá để đào giếng. Đục mãi, cuối cùng cũng bắt được mạch giếng. Vị sư già vô cùng sung sướng vục mặt vào mạch nước uống thỏa thích, đến khi bình tâm lại thì không thấy sư trẻ đâu cả. Đêm ngủ, ngài được báo mộng là có Phật giúp đỡ, nên mới có tên là giếng Phật.
Hòa thượng Thích Hạnh Trình cho biết giếng sâu khoảng 21 m, đường kính hơn 2 m, được xây bằng đá ong rất đẹp mắt. Là điểm đến của những người viếng chùa.
Đệ nhất phong cảnh Thiên Ấn niêm hà được ví là “Đệ nhất phong cảnh” của Quảng Ngãi, được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ VH-TT-DL) xếp hạng thắng cảnh - di tích vào năm 1990. Đây từng là nơi đàm đạo, xướng họa thơ ca của nhiều thi sĩ như: Cao Bá Quát, Bích Khê... nhất là hai nhà khoa bảng Nguyễn Cư Trinh và Phạm Trinh. |
Xuân Khánh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét