Trong hệ thống các di tích có mối liên hệ mật thiết và giữ vị trí quan trọng trong Thiền phái Trúc Lâm tại Chí Linh (Hải Dương), không thể không kể đến chùa Ngũ Đài.
Trong đó, chùa Ngũ Đài cùng với hệ thống chùa ở Yên Tử, Quỳnh Lâm, Ngọa Vân (Quảng Ninh); Thanh Mai, Côn Sơn (Hải Dương) và Vĩnh Nghiêm, Mã Yên, Am Vãi, Khám Lạng… (Bắc Giang) đã tạo thành một vùng tam giác Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử rực rỡ.
Thứ nhất Ngũ Đài…
Các đợt khai quật khảo cổ năm 2019-2020 tại chùa Ngũ Đài (phường Hoàng Tiến, TP Chí Linh) đã phát hiện nền móng, hiện vật từ thời Trần (thế kỷ XIII, XIV), thời hậu Lê (thế kỷ XVII, XVIII) và kéo dài đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX, XX).
Nằm ở chân núi Đống Thóc, thuộc khu vực Ngũ Đài sơn, chùa Ngũ Đài (Kim Quang tự) do Thiền phái Trúc Lâm xây dựng dưới triều vua Trần Minh Tông (năm 1320) và trùng tu vào các thời Lê, Nguyễn. Trải qua thời gian cùng bao biến động lịch sử, chùa đã bị hư hại nặng nề. Năm 2003, nhân dân đã dựng lại ngôi chùa gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung, cùng các gian nhà thờ mẫu...
Dù thời gian đã bào mòn, song ngày nay chúng ta vẫn có thể hình dung được không gian và quang cảnh ngôi chùa từ thuở ban sơ. Chùa được xây dựng trong hẻm núi, bốn bề núi non bao bọc. Trước mặt là dãy Ba Dội bằng phẳng như tấm bình phong che chắn. Lưng tựa núi Đống Thóc, trên là ngọn Bát Hương và xa hơn là Cổng Trời. Hai bên có hai dãy núi vươn ra tạo thành thế tay ngai, bên phải là dãy Hang Khánh (hay Khách), bên trái là khe Hang Mẳn (hay Mẫu). Với bố cục này, chùa Ngũ Đài giữ vị trí trung tâm của chốn Phật môn, tuân thủ chặt chẽ triết lý phong thủy, phù hợp và tương đồng với không gian chùa, tháp Phật giáo Trúc Lâm mà ngày nay chúng ta vẫn thấy hiện hữu rộng khắp nơi vùng Đông Bắc.
Theo Bảo tàng Lịch sử quốc gia, khu vực Ngũ Đài sơn xưa có nhiều ngôi chùa linh thiêng, với hàng trăm gian nằm rải từ chân lên tới đỉnh núi Đống Thóc, Cổng Trời… như chùa Hàm Long, Bát Hương, Hang Pheo… tạo cho Ngũ Đài sơn trở thành chốn linh thiêng bậc nhất.
Với những giá trị cảnh quan, lịch sử, văn hóa vô cùng đồ sộ của không gian di tích chùa Ngũ Đài và Ngũ Đài sơn và để có thêm cứ liệu khoa học cụ thể, đầy đủ hơn, phục vụ quy hoạch, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích, từ giữa tháng 8/2019 đến hết tháng 6/2020, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương và Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã phối hợp điều tra, khảo sát, thám sát và khai quật.
Với diện tích trên 1.200 m², các nhà khoa học đã phát hiện 4 lớp kiến trúc chồng đè lên nhau, thuộc 4 giai đoạn xây dựng, trùng tu và biến đổi của di tích. Đã xác định được mặt bằng, quy mô, kết cấu của chùa Ngũ Đài qua các giai đoạn lịch sử, kéo dài từ đầu thế kỷ XIV (thời Trần) đến đầu thế kỷ XX (thời Nguyễn). Khai quật cũng đã thu được một khối lượng lớn các loại hình di vật, gồm vật liệu kiến trúc và đồ thờ tự, đồ sinh hoạt, góp phần bổ sung cho việc nghiên cứu và giám định niên đại của di tích qua các thời kỳ lịch sử.
Kết quả khai quật khẳng định, vào thời Trần, chùa Ngũ Đài xây dựng dưới chân núi Đống Thóc, gồm 2 đơn nguyên kiến trúc hình chữ nhật nằm cách nhau một khoảng sân rộng 16 m, mặt quay về hướng tây nam (lệch tây 20 độ). Đơn nguyên kiến trúc thứ nhất nằm ngay sau ngôi chùa hiện tại, có mặt bằng hình chữ nhật, dài khoảng 21 m, rộng 7 m. Đơn nguyên kiến trúc thứ hai nằm ở phía sau, sát ngay chân núi Đống Thóc và cũng có mặt bằng hình chữ nhật, dài 24 m, rộng 10 m.
Theo lý lịch di tích và truyền tụng trong dân gian, chùa Ngũ Đài là một trong những ngôi chùa thuộc Thiền phái Phật giáo Trúc Lâm và có mối liên hệ mật thiết với hệ thống chùa ở Yên Tử, Quỳnh Lâm, Ngọa Vân (Quảng Ninh) cũng như Thanh Mai, Côn Sơn (Hải Dương) và Vĩnh Nghiêm, Mã Yên, Am Vãi, Khám Lạng… (Bắc Giang), tạo thành một vùng “tam giác Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử” phát triển rực rỡ. Đây là những thông tin quan trọng, giúp ích cho quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về không gian phân bố của hệ thống di tích chùa, tháp Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử cũng như các vấn đề về an ninh - quốc phòng của quốc gia Đại Việt thời Trần.
Sang thời Lê trung hưng đầu thế kỷ XVII, kết quả khai quật đã cho thấy chùa Ngũ Đài tiếp tục nhận được sự quan tâm và đầu tư quy mô của triều đình, quan lại cùng tầng lớp quý tộc thời Lê - Trịnh. Ngôi chùa đã được thiết kế, trùng tu và xây dựng mới ngay trên vị trí của chùa thời Trần.
Văn bia “Tu tạo Ngũ Đài sơn Kim Quang tự bi minh” khắc vào đời vua Lê Kính Tông, năm Nhâm Tý, niên hiệu Hoằng Định năm thứ 13 (1612) còn lưu giữ tại chùa cho biết: "Đầu thế kỷ XVII chùa được trùng tu thượng điện - mở rộng tiền đường - tô thêm tượng Phật - tướng mạo ngọc vàng…". Với quy mô và diện mạo mới, thời kỳ đó, trong tâm thức người dân, chùa Ngũ Đài đã “vượt Yên Tử”; là nơi “Công hầu tấp nập - Triều đình vãng thăm - Hoàng triều lễ phục - Vua giúp ngọc khuê - Công danh sáng tỏ - Sự nghiệp vẻ vang…”. Câu nói: “Thứ nhất Ngũ Đài, thứ nhì Yên Tử” được dân gian truyền tụng có lẽ cũng xuất phát từ sự nguy nga, tráng lệ của chùa Ngũ Đài sau đợt trùng tu này.
Thời Nguyễn, với bao biến động của lịch sử, điều kiện kinh tế ngày một khó khăn hơn, nên việc đầu tư xây dựng, trùng tu lại ngôi chùa đã nhiều phần thuyên giảm. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chùa chỉ còn lại những gian nhà khách ở phía dưới chân núi, được tận dụng để làm nơi thờ tự. Sau đó, do mưa nhiều, ẩm thấp quanh năm, năm 1936, nhân dân dịch chuyển lên trên để xây dựng với quy mô nhỏ bé hơn như vị trí hiện nay.
Làm nổi bật giá trị của chùa Ngũ Đài
Từ những luận cứ khoa học và lý lịch di tích, giữa tháng 5/2023, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương đã phối hợp tổ chức hội thảo khoa học phương án bảo tồn, tôn tạo, phục dựng chùa Ngũ Đài.
Có ý kiến cho rằng cần sớm có quy hoạch tổng thể toàn bộ khu vực Ngũ Đài sơn, trong đó chùa Ngũ Đài là trung tâm. Có thể mở rộng không gian bảo tồn từ khu vực đỉnh núi Cổng Trời (cao khoảng 530 m) xuống chân núi Đống Thóc và kéo qua khu vực núi Ba Dội, tạo thành một quần thể di tích văn hóa, tâm linh, vốn đã được thiên nhiên ban tặng, các bậc tiền nhân xây dựng và nổi tiếng trong lịch sử.
Trong quá trình mở rộng điều tra, khảo sát ở các khu vực lân cận chùa Ngũ Đài, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều địa điểm có dấu tích chùa, tháp thời Trần, Lê, Nguyễn phân bố trên các dãy núi phía sau chùa Ngũ Đài, giúp ích cho quá trình nhận thức về quy mô và không gian phân bố của hệ thống di tích chùa tháp Phật giáo ở khu vực Ngũ Đài sơn. Do vậy, để phục vụ hiệu quả hơn cho công tác quy hoạch bảo tồn và tu bổ, tôn tạo di tích, cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu, khai quật khảo cổ để xác định rõ mặt bằng, quy mô, kết cấu, diễn biến niên đại của các công trình kiến trúc chùa, tháp ở các khu vực. Điều này làm tăng thêm giá trị khoa học, lịch sử, văn hóa, tạo cơ sở cho việc quy hoạch và kiến tạo không gian du lịch tâm linh và nghỉ dưỡng tại đây.
Đối với việc tu bổ, tôn tạo chùa Ngũ Đài, kết quả khai quật đã làm xuất lộ hoàn toàn mặt bằng kiến trúc chùa qua các giai đoạn. Do vậy, để trả lại không gian xưa của di tích cũng như tạo điểm nhấn với vai trò là trung tâm cho toàn bộ khu vực quy hoạch, cần nghiên cứu thiết kế, trùng tu, tôn tạo lại ngôi chùa cho thật xứng tầm. Các nhà khoa học đã đề xuất nên lựa chọn mặt bằng kiến trúc chùa thời Lê trung hưng (đầu thế kỷ XVII), với kiểu thức nội công ngoại quốc để thiết kế trùng tu. Đây là mặt bằng kiến trúc có quy mô rộng lớn, dấu tích nền móng còn khá đầy đủ, có thể xác định rõ quy mô, kết cấu của các công trình, đồng thời cũng là giai đoạn mà chùa Ngũ Đài được nhìn nhận và ca tụng về sự hoành tráng và tráng lệ, thu hút sự quan tâm của đại đa số các tầng lớp từ quý tộc đến dân chúng cần lao...
Ngũ Đài sơn nói chung và chùa Ngũ Đài nói riêng đã và đang làm phong phú thêm di sản lịch sử, văn hóa quý báu của mảnh đất Chí Linh cũng như Hải Dương. Không chỉ là một bộ phận cấu thành trong dòng chảy của Thiền phái Trúc Lâm, địa điểm di tích này là những chứng cứ vật chất quan trọng, cung cấp cứ liệu khoa học, chân xác và toàn vẹn, hết sức cần thiết trong quá trình UNESCO xem xét công nhận quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc tại 3 tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương và Bắc Giang là di sản văn hóa thế giới.
Cuối tháng 9/2023, Hải Dương đón nhận tài trợ và khởi công tu bổ, tôn tạo tam quan, gác chuông của chùa Ngũ Đài. Các hạng mục công trình sẽ được xây dựng hài hòa, đúng theo lối kiến trúc truyền thống, phù hợp với không gian cảnh quan chung; là tiền đề cho việc tu bổ, tôn tạo các hạng mục tiếp theo của khu di tích để tương xứng với quy mô, tầm vóc nơi này.
Chùa Ngũ Đài hiện nay nằm dưới chân núi Đống Thóc. Ảnh: Thành Chung
Trong đó, chùa Ngũ Đài cùng với hệ thống chùa ở Yên Tử, Quỳnh Lâm, Ngọa Vân (Quảng Ninh); Thanh Mai, Côn Sơn (Hải Dương) và Vĩnh Nghiêm, Mã Yên, Am Vãi, Khám Lạng… (Bắc Giang) đã tạo thành một vùng tam giác Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử rực rỡ.
Thứ nhất Ngũ Đài…
Các đợt khai quật khảo cổ năm 2019-2020 tại chùa Ngũ Đài (phường Hoàng Tiến, TP Chí Linh) đã phát hiện nền móng, hiện vật từ thời Trần (thế kỷ XIII, XIV), thời hậu Lê (thế kỷ XVII, XVIII) và kéo dài đến thời Nguyễn (thế kỷ XIX, XX).
Nằm ở chân núi Đống Thóc, thuộc khu vực Ngũ Đài sơn, chùa Ngũ Đài (Kim Quang tự) do Thiền phái Trúc Lâm xây dựng dưới triều vua Trần Minh Tông (năm 1320) và trùng tu vào các thời Lê, Nguyễn. Trải qua thời gian cùng bao biến động lịch sử, chùa đã bị hư hại nặng nề. Năm 2003, nhân dân đã dựng lại ngôi chùa gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung, cùng các gian nhà thờ mẫu...
Dù thời gian đã bào mòn, song ngày nay chúng ta vẫn có thể hình dung được không gian và quang cảnh ngôi chùa từ thuở ban sơ. Chùa được xây dựng trong hẻm núi, bốn bề núi non bao bọc. Trước mặt là dãy Ba Dội bằng phẳng như tấm bình phong che chắn. Lưng tựa núi Đống Thóc, trên là ngọn Bát Hương và xa hơn là Cổng Trời. Hai bên có hai dãy núi vươn ra tạo thành thế tay ngai, bên phải là dãy Hang Khánh (hay Khách), bên trái là khe Hang Mẳn (hay Mẫu). Với bố cục này, chùa Ngũ Đài giữ vị trí trung tâm của chốn Phật môn, tuân thủ chặt chẽ triết lý phong thủy, phù hợp và tương đồng với không gian chùa, tháp Phật giáo Trúc Lâm mà ngày nay chúng ta vẫn thấy hiện hữu rộng khắp nơi vùng Đông Bắc.
Theo Bảo tàng Lịch sử quốc gia, khu vực Ngũ Đài sơn xưa có nhiều ngôi chùa linh thiêng, với hàng trăm gian nằm rải từ chân lên tới đỉnh núi Đống Thóc, Cổng Trời… như chùa Hàm Long, Bát Hương, Hang Pheo… tạo cho Ngũ Đài sơn trở thành chốn linh thiêng bậc nhất.
Với những giá trị cảnh quan, lịch sử, văn hóa vô cùng đồ sộ của không gian di tích chùa Ngũ Đài và Ngũ Đài sơn và để có thêm cứ liệu khoa học cụ thể, đầy đủ hơn, phục vụ quy hoạch, bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị di tích, từ giữa tháng 8/2019 đến hết tháng 6/2020, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Hải Dương và Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã phối hợp điều tra, khảo sát, thám sát và khai quật.
Với diện tích trên 1.200 m², các nhà khoa học đã phát hiện 4 lớp kiến trúc chồng đè lên nhau, thuộc 4 giai đoạn xây dựng, trùng tu và biến đổi của di tích. Đã xác định được mặt bằng, quy mô, kết cấu của chùa Ngũ Đài qua các giai đoạn lịch sử, kéo dài từ đầu thế kỷ XIV (thời Trần) đến đầu thế kỷ XX (thời Nguyễn). Khai quật cũng đã thu được một khối lượng lớn các loại hình di vật, gồm vật liệu kiến trúc và đồ thờ tự, đồ sinh hoạt, góp phần bổ sung cho việc nghiên cứu và giám định niên đại của di tích qua các thời kỳ lịch sử.
Kết quả khai quật khẳng định, vào thời Trần, chùa Ngũ Đài xây dựng dưới chân núi Đống Thóc, gồm 2 đơn nguyên kiến trúc hình chữ nhật nằm cách nhau một khoảng sân rộng 16 m, mặt quay về hướng tây nam (lệch tây 20 độ). Đơn nguyên kiến trúc thứ nhất nằm ngay sau ngôi chùa hiện tại, có mặt bằng hình chữ nhật, dài khoảng 21 m, rộng 7 m. Đơn nguyên kiến trúc thứ hai nằm ở phía sau, sát ngay chân núi Đống Thóc và cũng có mặt bằng hình chữ nhật, dài 24 m, rộng 10 m.
Theo lý lịch di tích và truyền tụng trong dân gian, chùa Ngũ Đài là một trong những ngôi chùa thuộc Thiền phái Phật giáo Trúc Lâm và có mối liên hệ mật thiết với hệ thống chùa ở Yên Tử, Quỳnh Lâm, Ngọa Vân (Quảng Ninh) cũng như Thanh Mai, Côn Sơn (Hải Dương) và Vĩnh Nghiêm, Mã Yên, Am Vãi, Khám Lạng… (Bắc Giang), tạo thành một vùng “tam giác Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử” phát triển rực rỡ. Đây là những thông tin quan trọng, giúp ích cho quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về không gian phân bố của hệ thống di tích chùa, tháp Phật giáo Trúc Lâm Yên Tử cũng như các vấn đề về an ninh - quốc phòng của quốc gia Đại Việt thời Trần.
Sang thời Lê trung hưng đầu thế kỷ XVII, kết quả khai quật đã cho thấy chùa Ngũ Đài tiếp tục nhận được sự quan tâm và đầu tư quy mô của triều đình, quan lại cùng tầng lớp quý tộc thời Lê - Trịnh. Ngôi chùa đã được thiết kế, trùng tu và xây dựng mới ngay trên vị trí của chùa thời Trần.
Văn bia “Tu tạo Ngũ Đài sơn Kim Quang tự bi minh” khắc vào đời vua Lê Kính Tông, năm Nhâm Tý, niên hiệu Hoằng Định năm thứ 13 (1612) còn lưu giữ tại chùa cho biết: "Đầu thế kỷ XVII chùa được trùng tu thượng điện - mở rộng tiền đường - tô thêm tượng Phật - tướng mạo ngọc vàng…". Với quy mô và diện mạo mới, thời kỳ đó, trong tâm thức người dân, chùa Ngũ Đài đã “vượt Yên Tử”; là nơi “Công hầu tấp nập - Triều đình vãng thăm - Hoàng triều lễ phục - Vua giúp ngọc khuê - Công danh sáng tỏ - Sự nghiệp vẻ vang…”. Câu nói: “Thứ nhất Ngũ Đài, thứ nhì Yên Tử” được dân gian truyền tụng có lẽ cũng xuất phát từ sự nguy nga, tráng lệ của chùa Ngũ Đài sau đợt trùng tu này.
Thời Nguyễn, với bao biến động của lịch sử, điều kiện kinh tế ngày một khó khăn hơn, nên việc đầu tư xây dựng, trùng tu lại ngôi chùa đã nhiều phần thuyên giảm. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chùa chỉ còn lại những gian nhà khách ở phía dưới chân núi, được tận dụng để làm nơi thờ tự. Sau đó, do mưa nhiều, ẩm thấp quanh năm, năm 1936, nhân dân dịch chuyển lên trên để xây dựng với quy mô nhỏ bé hơn như vị trí hiện nay.
Làm nổi bật giá trị của chùa Ngũ Đài
Từ những luận cứ khoa học và lý lịch di tích, giữa tháng 5/2023, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Dương đã phối hợp tổ chức hội thảo khoa học phương án bảo tồn, tôn tạo, phục dựng chùa Ngũ Đài.
Có ý kiến cho rằng cần sớm có quy hoạch tổng thể toàn bộ khu vực Ngũ Đài sơn, trong đó chùa Ngũ Đài là trung tâm. Có thể mở rộng không gian bảo tồn từ khu vực đỉnh núi Cổng Trời (cao khoảng 530 m) xuống chân núi Đống Thóc và kéo qua khu vực núi Ba Dội, tạo thành một quần thể di tích văn hóa, tâm linh, vốn đã được thiên nhiên ban tặng, các bậc tiền nhân xây dựng và nổi tiếng trong lịch sử.
Trong quá trình mở rộng điều tra, khảo sát ở các khu vực lân cận chùa Ngũ Đài, các nhà khoa học đã phát hiện nhiều địa điểm có dấu tích chùa, tháp thời Trần, Lê, Nguyễn phân bố trên các dãy núi phía sau chùa Ngũ Đài, giúp ích cho quá trình nhận thức về quy mô và không gian phân bố của hệ thống di tích chùa tháp Phật giáo ở khu vực Ngũ Đài sơn. Do vậy, để phục vụ hiệu quả hơn cho công tác quy hoạch bảo tồn và tu bổ, tôn tạo di tích, cần tiếp tục đầu tư nghiên cứu, khai quật khảo cổ để xác định rõ mặt bằng, quy mô, kết cấu, diễn biến niên đại của các công trình kiến trúc chùa, tháp ở các khu vực. Điều này làm tăng thêm giá trị khoa học, lịch sử, văn hóa, tạo cơ sở cho việc quy hoạch và kiến tạo không gian du lịch tâm linh và nghỉ dưỡng tại đây.
Đối với việc tu bổ, tôn tạo chùa Ngũ Đài, kết quả khai quật đã làm xuất lộ hoàn toàn mặt bằng kiến trúc chùa qua các giai đoạn. Do vậy, để trả lại không gian xưa của di tích cũng như tạo điểm nhấn với vai trò là trung tâm cho toàn bộ khu vực quy hoạch, cần nghiên cứu thiết kế, trùng tu, tôn tạo lại ngôi chùa cho thật xứng tầm. Các nhà khoa học đã đề xuất nên lựa chọn mặt bằng kiến trúc chùa thời Lê trung hưng (đầu thế kỷ XVII), với kiểu thức nội công ngoại quốc để thiết kế trùng tu. Đây là mặt bằng kiến trúc có quy mô rộng lớn, dấu tích nền móng còn khá đầy đủ, có thể xác định rõ quy mô, kết cấu của các công trình, đồng thời cũng là giai đoạn mà chùa Ngũ Đài được nhìn nhận và ca tụng về sự hoành tráng và tráng lệ, thu hút sự quan tâm của đại đa số các tầng lớp từ quý tộc đến dân chúng cần lao...
Các đại biểu làm nghi thức khởi công tu bổ, tôn tạo tam quan, gác chuông chùa Ngũ Đài, tạo tiền đề cho việc tu bổ, tôn tạo các hạng mục tiếp theo. Ảnh: Thành Chung
Ngũ Đài sơn nói chung và chùa Ngũ Đài nói riêng đã và đang làm phong phú thêm di sản lịch sử, văn hóa quý báu của mảnh đất Chí Linh cũng như Hải Dương. Không chỉ là một bộ phận cấu thành trong dòng chảy của Thiền phái Trúc Lâm, địa điểm di tích này là những chứng cứ vật chất quan trọng, cung cấp cứ liệu khoa học, chân xác và toàn vẹn, hết sức cần thiết trong quá trình UNESCO xem xét công nhận quần thể di tích và danh thắng Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn, Kiếp Bạc tại 3 tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương và Bắc Giang là di sản văn hóa thế giới.
Cuối tháng 9/2023, Hải Dương đón nhận tài trợ và khởi công tu bổ, tôn tạo tam quan, gác chuông của chùa Ngũ Đài. Các hạng mục công trình sẽ được xây dựng hài hòa, đúng theo lối kiến trúc truyền thống, phù hợp với không gian cảnh quan chung; là tiền đề cho việc tu bổ, tôn tạo các hạng mục tiếp theo của khu di tích để tương xứng với quy mô, tầm vóc nơi này.
Cảnh đẹp phía sau chùa Ngũ Đài
Đến Ngũ Đài mà không leo núi thăm thú cảnh quan coi như chưa đến bởi phía sau cảnh chùa u tịch là núi non hùng vĩ, vô số cảnh đẹp ít người từng đặt chân tới.
Leo lên đỉnh núi Đống Thóc, du khách sẽ ngỡ ngàng khi bắt gặp cả một không gian bao la, rộng lớn, núi non trùng điệp mở ra trước mắt. Lên cao là Cổng Trời, đỉnh cao nhất trong dãy Ngũ Đài với độ cao 531 m. Đứng trên Cổng Trời vào ngày thời tiết đẹp có thể nhìn ra tận Đồ Sơn (Hải Phòng), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Theo đường chim bay, đỉnh Cổng Trời ở ngay trước mắt nhưng đường đi khá hiểm trở.
Các ngọn của Ngũ Đài gối nhau: Đống Thóc, Bát Hương, Cằm Cặp, Ổ Lợn, Cổng Trời. Dọc đường leo núi, nhiều loại hoa rừng khoe sắc rất đẹp, ong bướm bay lượn như thêu nên những dải lụa. Có những sườn núi, hoa nở trắng, tỏa hương thơm ngào ngạt…
TIẾN HUY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét