24 tháng 9, 2021

Chùa Bửu Hưng

Tên thường gọi: Chùa Bửu Hưng

Chùa tọa lạc tại xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. ĐT: 067.848103. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Toàn cảnh chùa

Con kênh trước chùa

Đường vào chùa

Chùa Bửu Hưng (ảnh năm 1989)

Chùa Bửu Hưng

Mặt tiền chùa

Mặt bên chùa

Mặt bên chùa

Chùa được dựng vào khoảng thế kỷ XVIII.

Sách Sổ tay hành hương đất phương Nam (NXB. TP. Hồ Chí Minh, 2002) cho biết nhà sư Nguyễn Đăng ở Phú Xuân vào Nam lập chùa ẩn tu. Kế tục là Thiền sư Tịnh Châu.

Chùa được vua Gia Long ban Sắc tứ vào năm 1803 dưới thời Thiền sư Từ Lâm trụ trì. Kế tục trụ trì là chư vị Thiền sư: Từ Tâm, Minh Phước, Minh Tịnh, Như Lý, Thiên Trường, Chánh Viên, Thiên Truyền, Chơn Hòa, Phước Chí, Quảng Minh, Quảng Luận. Trụ trì hiện nay là ĐĐ Thích Minh Trí.



Điện Phật

Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ và các bao lam được chạm trổ công phu, đặc biệt là pho tượng đức Phật A Di Đà bằng gỗ cao 2,5m do triều đình Huế gởi cúng vào đầu thế kỷ XIX.

Chùa được trùng tu vào các năm 1909, 1950, 1990 và 2003.

Ngày 12 – 9 – 2004, Tăng Ni và hàng ngàn Phật tử của chùa đã đón nhận bằng công nhận di tích Lịch sử – văn hóa do UBND tỉnh Đồng Tháp trao tặng.

Bàn thờ Tổ

Tượng Minh Vương (ảnh năm 1989)

Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Chùa Bửu Hưng – Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ở Đồng Tháp

Chùa Bửu Hưng tọa lạc tại xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp cách trung tâm TP Sa Đéc khoảng 9km. Đây là ngôi chùa cổ bậc nhất tại huyện Lai Vung có giá trị nghệ thuật cao mang nét đặc trưng của kiến trúc Phật giáo vùng đất phía Nam. Bửu Hưng cổ tự đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa cấp Quốc gia vào ngày 3/8/2007.

Chùa Bửu Hưng – Di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Vì ngôi chùa nằm bên cạnh rạch ông Cả Cát nên người dân quen gọi đây là chùa Cả Cát hàng trăm năm nay. Theo lịch sử ghi chép tại chùa thì Bửu Hưng tự được thiền sư Nguyễn Đăng từ kinh thành Huế vào đây dựng chùa vào giữa thế kỷ 18, khoảng những năm 1777 – 1780 với vật liệu tạm bợ là tre trúc, vách đắp bùn, lợp lá dừa nước.

Sau khi Thiền sư Nguyễn Đăng viên tịch, kế thế thảo am là Thiền sư Tịnh Châu du hóa đến nơi này. Thảo am tuy nhỏ hẹp nhưng với đạo đức của Thiền sư Nguyễn Đăng lúc sinh tiền và danh tiếng tu hành của Thiền sư Tịnh Châu, gần xa có mười vị tăng sĩ đến tu thiền, phải dựng thêm tăng đường, cũng bằng tre nứa, tranh vách trát bùn. Bên phía Tây do thiền sinh ở tham thiền học đạo, bên hướng Đông chùa đào một cái ao chứa nước để dùng trong mùa nắng. Chùa Bửu Hưng lúc này còn hoang sơ vắng vẻ, cây rừng ẩm thấp, đêm ngày thỉnh thoảng vẫn có thú rừng đến ao uống nước. Vẻ thâm u cô tịch, lại xuất hiện cọp, beo cũng đến thảo am uống nước và nghe kinh chú nguyện của Tổ Tịnh Châu.

Năm 1803, ngôi chùa được vua Gia Long phong là Sắc tứ Bửu Hương tự. Tương truyền, có lần bị quân Tây Sơn đánh đuổi, chúa Nguyễn Phúc Ánh (về sau là vua Gia Long) đã phải chạy vào chùa trú ẩn. Nhớ ơn, nên sau khi lên ngôi, chúa Nguyễn đã ban biển sắc tứ cho chùa, đồng thời phong cho sư Tiên Thiện Từ Lâm là Từ Dung hòa thượng. Trong chùa có tấm biển ghi “Sắc tứ Bửu Hưng Tự Gia Long nhị niên”. Sau đó, nhà sư đã cho xây dựng ngôi chùa đơn sơ thành một ngôi đại tự kiên cố bằng cây gỗ quý.

Năm 1821, dưới đời Vua Minh Mạng, tổ Minh Tịnh Bửu Thành và Minh Phước Tư Trung cho xây dựng chùa quy mô hơn và được triều đình cúng tượng phật Di Đà bằng gỗ cao 1,8m và các pháp khí để thờ.

Tượng Phật Di Đà được triều đình cúng

Năm 1910, đến đời tổ Như Lý hiệu Thiên Trường (1887 – 1969) chùa lại được trùng tu lớn. Trong những năm 1909 – 1911, sư đã cho sửa sang chánh điện, chạm trổ thêm bao lam thần vọng, biển thờ, hoành phi, câu đối… Đồng thời, nhà sư cũng cho chỉnh sửa lại khu mộ tháp và trồng thêm cây cảnh nên ngôi chùa càng thêm đẹp đẽ và uy nghiêm.

Sau đó, Ngài giao chùa lại cho đệ tử là Đại Sư Nguyên Nghiêm Thiện Truyền Kế Thế trụ trì (1930-1940) – Sư là người địa phương nhà ở gần chùa.

Năm 1940 – 1945 kế thế trụ trì chùa là Đại Sư Nguyên Hữu. Tháng 9 năm 1946 chùa bị máy bay ném bom trúng ngay nhà tổ làm thiệt mạng sư trụ trì Chánh Viên và 04 phật tử. Hưởng ứng công cuộc kháng Pháp nhà chùa đã hiến một đại hồng chung cho cách mạng để chế tạo vũ khí đánh Pháp. Sau đó hoà thượng Chơn Hoà (1950 – 1966) về trụ trì cho xây dựng lại nhà tổ như cũ, chùa dần dần hưng thịnh lại như trước.

Năm 2002 chùa được tu sửa lại, mái lợp ngói lưu ly, nền lát gạch men. Các cột kèo phù điêu, các bức chạm tứ quí còn nguyên gốc rất đặc sắc khéo léo.

Ngày nay, ngôi chùa nằm giữa khu vườn yên tĩnh, nhiều cây xanh thoáng đãng. Trước chùa là hồ sen và trước nữa là con rạch chảy xuôi ngang chùa nên bốn mùa mát rượi, phía trên có chiếc cầu vòng cung bắc ngang rạch, phong cảnh nên thơ. Điều này không chỉ tạo cho không gian ngôi chùa cổ thanh tịnh cần có của chốn thiền môn, mà còn là địa điểm hành hương lý tưởng của phật tử và khách đến du lịch Đồng Tháp đến tham quan chiêm bái.

Ngôi chùa nằm giữa khu vườn yên tĩnh, nhiều cây xanh thoáng đãng.

Về kiến trúc xây dựng, Chùa Bửu Hưng hiện tọa lạc trên diện tích khoảng 4.000 mét vuông, thiết kế theo kiểu chữ tam có chiều ngang 15 mét, dài 50 mét bao gồm: Tiền đường, Chánh điện và nhà Hậu Tổ. Tiền đường và Chánh điện nối liền nhau.

Chánh điện

Chánh điện gồm ba gian hai chái rộng lớn kiểu tứ trụ, có bao lam, Thần vọng chạm trổ tứ linh rất tinh xảo và công đình nhà Nguyễn gửi vào cúng dường năm 1821. 

Chánh điện được chạm trổ tứ linh rất tinh xảo

Phía sau chánh điện chùa là một sân lộ thiên (sân thiên tỉnh) hình chữ khẩu, có hành lang hai bên (Đông lang, Tây lang) nối với nhà Hậu Tổ. 

Sân thiên tỉnh

Trong vườn trúc cạnh chùa là khu tháp cổ. Đây là nơi an trí nhục thân của các nhà sư đã từng tu tập tại chùa. 

Vườn trúc

Khu tháp cổ

Đây là nơi an trí nhục thân của các nhà sư đã từng tu tập tại chùa

Ngoài nét kiến trúc cổ kính, điểm đặc biệt của chùa Bửu Hưng chính là phần lớn các tượng Phật trong chùa đều được làm bằng nhiều loại gỗ quý có niên đại hàng trăm năm tuổi. Trong đó đáng chú ý là tượng Phật A Di Đà được làm bằng gỗ do triều đình nhà Nguyễn gửi vào cúng dường năm Minh Mạng thứ 2 (năm 1821) được đặt giữa chánh điện. 

Hiện chùa vẫn còn hơn 100 cây cột gỗ to và quý

Hiện chùa vẫn còn hơn 100 cây cột gỗ to và quý, ba bộ cửa gỗ lớn (mỗi cửa 4 cánh) có chạm hình rồng và hoa lá rất mỹ thuật. Ba bộ cửa này được làm ở đầu thế kỷ 20 và được dựng ở vách sau Chánh điện vào những năm 1909 – 1911.

Cũng như các ngôi chùa khác ở Nam Bộ, ngoài việc cúng tụng hàng ngày, ngày lễ lớn nhất trong năm là ngày lễ phật đản (15/4 âm lịch), kế đó là ngày rằm thượng ngươn (15/01 âm lịch), trung ngươn (Vu Lan 15/7 âm lịch), và hạ ngươn (18/10 âm lịch). Điều đặc biệt là lễ Vu Lan tổ chức vào 02 ngày 28 – 29/7 âm lịch hằng năm chứ không tổ chức vào ngày 15/7 âm lịch như các chùa khác.

Du lịch Đồng Tháp, vãn cảnh chùa bạn sẽ cảm nhận được không khí thật kỳ bí, thư thái, tâm hồn an nhiên nhưng không kém phần uy nghiêm, điều mà không phải chùa nào cũng có được.

Ảnh: Sưu tầm, Bùi Thụy Đào Nguyên, Thế Vinh Trần.
Uy thiêng chùa Bửu Hưng ở Đồng Tháp

Đường vào chùa Bửu Hưng tọa lạc tại ấp Hòa Ninh, xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp xanh rì bóng cây, tạo thêm vẻ uy thiêng huyền bí từ ngôi chùa gần 240 xây dựng, tồn tại, phát triển và được xem là một trong những ngôi chùa cổ nhất Đồng Tháp. Vì ngôi chùa nằm bên cạnh rạch ông Cả Cát nên người dân quen gọi đây là chùa Cả Cát hàng trăm năm nay. 

Theo tư liệu của chùa thì năm 1777, thiền sư Nguyễn Đăng từ kinh thành Huế vào đây dựng chùa với vật liệu tạm bợ là tre trúc, vách đắp bùn, lợp lá dừa nước. Sau đó chùa được trùng tu rất nhiều lần, lần gần nhất vào năm 1977. 

Về kiến trúc xây dựng, Chùa Bửu Hưng hiện tọa lạc trên diện tích khoảng 4.000 mét vuông, thiết kế theo kiểu chữ tam" (三) có chiều ngang 15 mét, dài 50 mét bao gồm: Tiền đường, Chánh điện và nhà Hậu Tổ. Tiền đường và Chánh điện nối liền nhau. Chánh điện gồm ba gian hai chái rộng lớn kiểu tứ trụ, có bao lam, Thần vọng chạm trổ tứ linh rất tinh xảo và công đình nhà Nguyễn gửi vào cúng dường năm 1821. 


Về chuyện này, Hòa thượng Thích Minh Trí, trụ trì chùa kể lại “…vào khoảng năm 1785 đến 1790 (?) Nguyễn Ánh (tức vua Gia Long) bị quân Tây Sơn truy đuổi vào tận các tỉnh phía Nam đã có thời gian dẫn tàn binh ghé qua chùa này tá túc và được cưu mang, che chở an toàn. Nhớ ơn này Gia Long có kể lại cho con cháu của mình biết để trả ơn. Đến năm 1821, vua Minh Mạng là hậu duệ của vua Gia Long mới thực hiện lời di chúc này…”. 

Phía sau chánh điện chùa là một sân lộ thiên (sân thiên tỉnh) hình chữ khẩu (口), có hành lang hai bên (Đông lang, Tây lang) nối với nhà Hậu Tổ. 


Trong vườn trúc cạnh chùa là khu tháp cổ. Đây là nơi an trí nhục thân của các nhà sư đã từng tu tập tại chùa. 

Ông Lê Tấn Thế, ngụ cạnh chùa tuy đã 90 tuổi, nhưng vẫn còn minh mẫn trí óc kể : hồi xưa vùng này hoang vu lắm, cỏ lác mọc đầy, cọp, beo, rắn, rít đầy dẫy. Mỗi khi tối đến không ai dám bơi xuồng dưới kênh hay đi bộ trên con đường làng hẻo lánh. Cứ vài ba ngày là có người bị rắn cắn, heo gà vịt bị cọp tha. Từ khi có ngôi chùa này thì mọi chuyện yên ổn hơn. 

Đại đức Thích Thiện Bửu, người đang làm phật sự tại chùa kể thêm “…không biết hư thực ra sao, nhưng câu chuyện kể về cọp, beo mỗi đêm về cái ao nước phía đông của chùa uống nước, nằm phủ phục trước chánh điện để nghe tụng kinh Phật rồi mới rút lui được lưu truyền hàng trăm năm qua, hiện nay cái ao này vẫn còn giữ nguyên trạng và được trồng nhiều hoa sen rất đẹp mắt…”. 

Ngày 03/07/1947, máy bay Pháp đã ném bom rất ác liệt do chùa này là nơi nuôi chứa nhiều cán bộ cách mạng hoạt động địa bàn Sa Đéc, Cao Lãnh, Vĩnh Long. Điều rất kỳ lạ là toàn bộ chánh điện đều còn nguyên vẹn dưới mưa bom. Chính điều kỳ này làm tăng thêm sự tin tưởng uy thiêng của chùa Bửu Hưng. Tại đây cũng đã là nơi đào tạo, tu tập của rất nhiều tu sinh từ các địa phương. 


Với bề dày lịch sử như vừa nêu, năm 2007, chùa Bửu Hưng đã được Bộ VHTT & DL công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.

Phương Anh
Chùa Bửu Hưng: Ngôi chùa cổ với những bức tượng Phật độc đáo

Hầu hết các tượng Phật ở chùa Bửu Hưng có màu sắc nhẹ nhàng, không lòe loẹt, y phục không hoa văn tiểu tiết rườm rà; những tượng Phật này toát lên được sự trang nghiêm và đã tạo nên không gian trầm ấm cho một ngôi cổ tự.


Đôi nét về chùa Bửu Hưng và vị trí địa lý

Chùa Bửu Hưng tên chữ Hán là Bửu Hưng tự hay còn gọi là Bửu Hưng Cổ tự, và vì nằm gần rạch Cả Cát nên các đạo hữu và những người dân quanh vùng thường gọi là chùa Cả Cát. Di tích Lịch sử - Văn hóa này vào thời Phong kiến thuộc thôn Hòa Long, huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh. Trước năm 1975, chùa thuộc xã Hòa Long, quận Đức Thành, tỉnh Sa Đéc. Sau ngày 30/4/1975, chùa thuộc xã Hòa Thắng, huyện Thạnh Hưng, tỉnh Đồng Tháp. Từ tháng 8/1989 đến nay chùa Bửu Hưng tọa lạc tại ấp Hòa Ninh, xã Long Thắng, huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

Chùa có tổng diện tích khoảng 13.760 m², trong đó diện tích tiền đường và chánh điện là 314 m², diện tích tiền sảnh và nhà tổ là 288 m², diện tích nhà giảng là 198 m², phần còn lại là nhà trù, ni xá, sân kiểng, ao nước, vườn cây ăn trái và các công trình phụ.

Tượng thờ ở chùa Bửu Hưng


Trong chùa Bửu Hưng có tất cả 58 tượng thờ, trong đó có 26 tượng bằng gỗ, một tượng bằng đồng, 20 tượng bằng xi-măng và 10 tượng được tạo từ nguyên liệu gốm. Các tượng bằng gỗ đều có niên đại ở thế kỷ XIX và XX. Ngoài tượng Phật A Di Đà được vua Minh Mạng gửi vào cúng dường, chùa Bửu Hưng còn có các tượng khác được tạc bằng gỗ như: bộ tượng Hộ Pháp khuyến thiện - trừng ác, Địa Tạng thượng kỳ thú, Tiêu Diện Đại sĩ, Giám Trai sứ giả, Già Lam, Quan Công, Ngọc Hoàng đại đế, Nam Tào - Bắc Đẩu, và bộ Thập điện Diêm vương… Các tượng này đều có giá trị cao về niên đại cũng như nghệ thuật điêu khắc.

Các tượng thờ có niên đại ở chùa Bửu Hưng

Tượng Phật A Di Đà: được thờ ở vị trí chủ vị thuộc gian trung tâm của chánh điện, có niên đại vào năm Minh Mạng thứ hai (tức năm 1821). Vua Minh Mạng sau khi lên ngôi đã cho tạc tượng Phật A Di Đà gửi vào cúng dường để bày tỏ lòng biết ơn Hòa thượng chùa Bửu Hưng khi xưa đã che chở cho tiên đế (Nguyễn Ánh - vua Gia Long) trong cuộc lánh nạn Tây Sơn. Trụ trì lúc bấy giờ là Hòa thượng Tiên Thiện Từ Lâm. Tượng được tạc bằng gỗ mít, cao 2,3 m tính cả đài sen, được sơn son thếp vàng, tuy nhiên trải qua thời gian dài nên tượng đã phai màu. Dưới đài sen có bệ đỡ tượng Phật được làm bằng gỗ sơn màu đen, chạm khắc hoa văn, các hoa văn được thếp vàng, có chiều cao 0,43 m, xung quanh được chạm khắc diềm trang trí và hoa văn, bốn chân bệ được chạm khắc mẫu hoa sen trang trí.

Tượng Phật A Di Đà được tạc trong tư thế ngồi kiết-già thiền định trên tòa sen - còn gọi là tư thế Vajrasana (Bảo tòa kim cang), hai bàn tay kiết ấn đặt trên hai đùi, hai đầu ngón tay cái chạm nhau, mắt nhắm thiền, tai dài, áo phủ hai vai, trên ngực khắc nổi chữ vạn (卍 - svastika) to, màu đỏ. Khác với những pho tượng Phật trong nền văn hóa tạc tượng của Chăm Pa hay Óc Eo, tượng Phật chùa Bửu Hưng mang đậm phong thái của người Việt.

Những đường nét nghệ thuật chạm trổ theo kiểu nhát đục đã khắc họa nên hảo tướng của một vị Phật. Tượng được tạc với nụ cười an nhiên, tư thế ngồi tự tại tạo nên sự thân thiện, gần gũi; đồng thời qua đó thể hiện niềm mong ước một cuộc sống an vui, lạc quan tự tại của những người con Việt ở đầu thế kỷ XIX.

Như được biết, đây là một trong hai bức tượng được triều đình Huế gửi vào Nam cúng dường. Tượng thứ nhất được cúng cho chùa Khải Tường ở Gia Định và tượng thứ hai được cúng cho chùa Bửu Hưng. Khi so sánh hai pho tượng với nhau, người viết nhận thấy kích thước, chiều cao, tư thế ngồi và phong cách tượng có rất nhiều nét tương đồng. Vì vậy ta có thể nói rằng tượng Phật ở chùa Bửu Hưng và tượng Phật ở chùa Khải Tường (hiện được lưu giữ tại Viện Bảo tàng TP.Hồ Chí Minh) có cùng một xuất xứ và niên đại. Tính đến nay tượng Phật A Di Đà ở chùa Bửu Hưng đã được 199 năm.

Ngoài tượng Phật A Di Đà, chùa Bửu Hưng còn có các tượng được tạc bằng gỗ khác có giá trị nghệ thuật cao như:

Tượng Hộ Pháp khuyến thiện - trừng ác: là hai pho tượng được đặt đăng đối hai bên bàn Phật A Di Đà[4], tượng Hộ pháp khuyến thiện nằm bên trái và tượng Hộ pháp trừng ác ở bên phải của bàn Phật A Di Đà (hướng từ trong nhìn ra). Hai tượng có chiều cao tương đương nhau, gần 2,1m, được an vị trên bệ thờ có chiều cao là 1,05 m, chiều rộng là 0,68 m.

Tượng Hộ pháp khuyến thiện được tạc với gương mặt hiền từ, đầu đội mũ kim khôi, mình mặc áo giáp trụ, có hổ phù trấn ở đai lưng, râu dài đến bụng, mắt nhìn thẳng, tay phải cầm kiếm, mũi kiếm chống lên sừng con rồng dưới chân, tay trái cầm ngọc (nhưng viên ngọc này theo thời gian có lẽ đã bị rớt mất), hai chân mang giày mũi hài, đứng trên phù điêu chạm rồng ẩn trong mây. Tượng có phong thái phương phi, mạnh mẽ của một bậc hộ pháp. Thanh kiếm trong tay là một biểu tượng về trí tuệ trong Phật giáo. Trí tuệ sắc bén ấy sẵn sàng chặt đứt mọi vọng tưởng của thế gian. Ngọc sáng trên tay là để chiếu soi đưa người đi vào nẻo sáng.

Tượng Hộ pháp trừng ác, được chạm với gương mặt dữ tợn, mắt trợn ngược, râu quai nón hùng hổ, đầu đội mũ kim khôi, tướng mạo phương phi, oai nghi bệ vệ, mình mặc áo giáp trụ, tay phải cầm búa, tay trái thủ thế võ, chân mang giày mũi hài, đứng trên mình rồng. Tượng thể hiện phong thái mạnh mẽ, với ý nghĩa sẵn sàng diệt trừ cái ác, răn đe những người có tâm hạnh xấu ác, giúp họ nhìn lại và tu sửa chính mình.

Tượng Thích Ca đản sinh: được thờ ở bàn Cửu long phún thủy đặt ở tiền đường, mặt thờ xoay vào trong đối diện với bàn Phật A Di Đà. Toàn bộ bàn thờ được chạm bằng gỗ. Bên trên tượng đản sinh là các khung gỗ tách rời được gắn mộng vào nhau, hoa văn trang trí rất đẹp. Khung chủ phía trước tạc hình chín con rồng với chín tư thế khác nhau lấy hình đầu rồng trên đỉnh khung làm chuẩn, chín rồng này cùng phun nước chầu về Đức Phật.

Ở trung tâm bàn thờ tôn trí tượng Đức Phật được tạc trong hình hài của một đứa trẻ, với mình trần quấn một chiếc khăn như chiếc váy có nút thắt trước bụng, hai chân đứng trên tòa sen, một tay chỉ trời một tay chỉ đất biểu thị cho câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Nghĩa là trên trời, dưới đất duy có Ta là bậc tôn quý. “Ngã” ở đây chỉ cho tâm Phật, chỉ có tâm Phật là cao quý, bất sinh bất diệt, là mục đích hướng thiện của muôn loài. Đây là mẫu tượng phổ thông xuất hiện ở các chùa sau thế kỷ XVII, các tượng đương đại về sau này thay phần váy phía dưới thành dải khăn vắt qua vai và cột thắt ở phần hông theo kiểu Phật giáo Nam tông, hoặc có khi tạc đầy đủ xiêm y.

Trên khung cửu long ở các tầng mây có an trí nhiều tượng Phật, Bồ-tát, chư thiên…, nhằm mô tả một thế giới Phật giáo thu nhỏ. Toàn bộ bàn thờ được thể hiện như một bức tranh lịch sử về sự đản sinh của Thái tử Tất Đạt Đa. Từng nét chạm trổ hoa văn được điêu khắc tinh xảo. Bệ thờ được chạm tứ linh (long, lân, quy, phụng) theo chầu. Các tượng đủ hình thể được an trí trên khung cửu long như hàm ý bày tỏ niềm hân hoan của cả ba cõi khi Đức Phật thị hiện nơi chốn Ta-bà: chư thiên trổi nhạc dâng hoa cúng dường, mười phương ba đời chư Phật đồng tán dương khen ngợi và chín rồng phun nước tắm thân Như Lai. Đây là một biểu tượng đẹp, thiêng liêng trong văn hóa Phật giáo, thể hiện sự tôn kính và tán thán công hạnh của Đức Phật.

Tượng Địa Tạng thượng kỳ thú: được thờ ở chái bên trái của chánh điện, đặt ở giữa và chung bàn với tượng Địa Tạng và Quan Âm Bồ-tát. Hai Tượng Quan Âm - Địa Tạng đều được đúc bằng xi-măng, đứng trên tòa sen, sơn son thếp vàng, cao 1,5m. Tượng Địa Tạng thượng kỳ thú có lớp áo phủ bên ngoài đều là màu đen, đây là lớp sơn thí được sơn trước nhiều lần nhằm gắn chặt lớp đất hom và vải vào gỗ trước khi thếp vàng cho tượng.

Trước kia tượng cũng được sơn son thếp vàng, song do thời gian khá lâu nên màu sơn bên ngoài đã tróc hết, chỉ còn sót lại một ít bám vào các cạnh khe của tượng và các đường chỉ áo vẫn còn màu nâu đỏ. Tượng được tạc ở thế ngồi tự tại trên mình con đề thính, khuôn mặt đầy đặn, đầu đội mão tỳ lư, tay trái đặt ngang bụng trên tay cầm ngọc như ý, tay phải đưa ngang ngực trong tư thế cầm tích trượng (cây tích trượng nay đã không còn), thân đắp y phục theo Phật giáo Bắc tông.

Tượng ngồi trong tư thế an lạc, tự tại. Con đề thính phía dưới làm tòa được tạc trong tư thế nằm phủ phục, đầu ngoảnh vào nhìn ngài Địa Tạng, nét mặt hoan hỷ. Đề thính được xem là một linh vật có thể nghe được hết mọi thứ trong tam giới, giúp Địa Tạng Bồ-tát phân biệt được thật giả đúng sai, ngọc như ý với ánh sáng trong suốt có thể soi sáng nẻo vô minh, cứu độ chúng sinh siêu thoát chốn địa ngục.

Tượng Tiêu Diện Đại sĩ: Trong chùa Bửu Hưng có hai bộ tượng Tiêu Diện Đại sĩ và Hộ Pháp Vi Đà, đặt hai bên của bàn cửu long phún thủy. Hai tượng Hộ Pháp Vi Đà và một tượng Tiêu Diện phía trước được đúc bằng xi-măng, sơn son thếp vàng. Riêng tượng Tiêu Diện ở phía sau bên phải bàn cửu long phún thủy được tạc bằng gỗ, cao 1,15m. Y phục của tượng được sơn màu nâu đen có viền chỉ màu xanh đậm. Trên đầu đội tượng Bồ-tát Quan Âm, tay trái chống hông, tay phải trong tư thế cầm cờ (lá cờ này hiện không còn), mình mặc áo giáp trụ, chân không mang giày. Ngoài việc phụng thờ để lễ bái, bức tượng này thường được thỉnh trần thiết trong những lễ trai đàn chẩn tế tại chùa Bửu Hưng.

Tượng Già Lam - Giám Trai: Đây là những tượng thờ biểu thị cho bậc Hộ pháp ở chốn tòng lâm. Cũng giống tượng Địa Tạng thượng kỳ thú, các tượng này cũng bị phai màu áo, hiển hiện rõ màu sơn then thường dùng trong nghệ thuật tạc tượng, làm cho tượng càng có phong thái trầm tĩnh và cổ xưa.

Ngoài ra, trên chính điện chùa Bửu Hưng còn thờ tượng Phật Thích Ca, tượng Di Lặc, tượng Văn Thù, Phổ Hiền, Chuẩn Đề Bồ-tát… Đây là những tượng có kiểu dáng đương đại nhưng lại gần gũi vì hầu như các chùa theo Phật giáo Bắc tông đều thờ những tượng này. Các tượng đều được đúc bằng xi-măng, sơn son, thếp vàng và mang nhiều ý nghĩa trong việc độ sinh cũng như độ tử của Phật giáo.

Các tượng thờ có tín ngưỡng của nền văn hóa dân gian

Ngoài thờ Phật và Bồ-tát, trên chính điện chùa Bửu Hưng còn có sự dung hòa giữa tín ngưỡng dân gian và Phật giáo, đó là việc thờ các tượng như Quan công, Ngọc Hoàng Đại đế, Thập điện Diêm vương…, thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian vào buổi đầu Phật giáo du nhập vào vùng đất mới. Hơn nữa, người dân Nam Bộ thời bấy giờ đời sống của họ gắn bó mật thiết với ruộng đồng, giáo lý nhân quả nghiệp báo của Phật giáo đối với họ còn sâu xa, khó hiểu, nhưng chỉ cần nghe đến tên của các vị này, họ phần nào hiểu được thế nào là việc làm đúng hay sai, là thiện hay ác để từ đó họ sửa đổi bản thân. Sự dung hòa này cũng chính là một hình thức dùng quan điểm nhận thức của họ để giúp đỡ họ thăng tiến trên con đường tâm linh, nhắc nhở họ tránh xa việc ác, biết tu điều thiện. Ở đây xin giới thiệu về các tượng có niên đại lịch sử:

Bộ Thập điện Diêm vương: gồm 10 tượng được chạm với hình thái giống nhau. Bộ tượng này được thờ đăng đối ở chái trái và chái phải của chùa Bửu Hưng. Trên mỗi bàn thờ năm vị Diêm vương mặc áo long cổn có bổ tử trước ngực, ngồi trên ngai, tay ngai được chạm đầu rồng và hai vị phán quan tay cầm cuốn thư đứng hầu hai bên.

Các tượng được tạc bằng gỗ, cao khoảng 45 cm, trên đầu đội mũ thiên bình (tua ở bốn góc mũ nay không còn) hai tay cầm thẻ bài, chắp nghiêm trang trước ngực, ở dưới có khăn phủ tay, lưng có cân đai và chân mang hia rất đạo mạo. Bộ tượng Thập điện Diêm Vương xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ XVIII, ở đây thể hiện sự dung hòa văn hóa của Phật giáo với Đạo giáo và Trung Quốc. Các chùa thờ bộ tượng này nhằm mục đích giáo dục, khuyến tấn cho việc hướng thiện của Phật giáo đối với quần chúng và tín đồ Phật tử.

Bộ tượng Ngọc Hoàng Đại đế và Nam Tào - Bắc Đẩu: Bộ tượng này được thờ phía bên gian phải của chánh điện. Ngọc Hoàng với ý nghĩa là vua trời, người nắm giữ vận mệnh của vạn vật trong vũ trụ. Nam Tào - Bắc Đẩu được xem là hai vị cận thần ở bên cạnh Ngọc Hoàng Đại đế; họ cầm sổ sinh và tử quyết định sự sống chết của thế gian. Bộ tượng này được chạm nhỏ so với các chùa khác, có chiều cao tương đương với bộ Thập điện Diêm vương.

Hai vị Nam Tào - Bắc Đẩu không ngồi ghế đai như ý nghĩa của tượng mà lại có hình tướng giống vị phán quan bên bàn Thập điện Diêm Vương. Bộ tượng này được thờ trong chùa với ý nghĩa muốn răn dạy mọi người làm lành, lánh dữ. Làm lành thì sẽ được Nam Tào ghi vào sổ phước và sống lâu, còn làm ác sẽ bị Bắc Đẩu ghi vào sổ tử và sẽ yểu thọ, chết sớm. Đây cũng là một hình thức mượn tín ngưỡng dân gian cho mục đích giáo dục trong Phật giáo.

Lời kết

Có thể thấy ở chùa Bửu Hưng có rất nhiều tôn tượng được làm từ nhiều chất liệu khác nhau nhưng đều khắc họa được những đường nét hảo tướng của các tượng Phật, Bồ-tát… Đáng chú ý nhất là nghệ thuật tạc tượng gỗ. Những bức tượng không quá cầu kỳ về hoa văn trang trí, được tạo tác bằng thủ công theo phương cách nhát đục và sơn thếp nhưng lại có phong thái điềm nhiên, trầm tĩnh, tự tại với gương mặt thiền và nụ cười an nhiên. Hầu hết các tượng Phật ở chùa Bửu Hưng có màu sắc nhẹ nhàng, không lòe loẹt, y phục không hoa văn tiểu tiết rườm rà; những tượng Phật này toát lên được sự trang nghiêm và đã tạo nên không gian trầm ấm cho một ngôi cổ tự.

Tượng thờ ở chùa Bửu Hưng có niên đại sớm nhất là tượng Phật A Di Đà ở thế kỷ XIX, vào thời vua Minh Mạng; các bộ tượng khác dần xuất hiện sau đó, nhất là đầu thế kỷ XX (khoảng những năm 1909 đến 1911), sau khi HT. Như Lý Thiên Trường trùng tu xong chánh điện. Về sau số lượng tượng có tăng thêm, chủ yếu là các tượng được làm từ xi-măng, thạch cao và gốm, có niên đại thế kỷ XX và XXI.

Tượng thờ ở chùa Bửu Hưng có dáng đầy đặn, mặt tròn, tư thế ngồi tự tại đã thể hiện phần nào tâm tư của người dân Việt ở thế kỷ XIX và XX là mong muốn có một cuộc sống an nhàn, thảnh thơi và đầy đủ, đồng thời thể hiện nội tâm của người tạc tượng từ bao thế kỷ trước. Với sự khéo léo từ đôi bàn tay tài hoa của mình, các nghệ nhân đã tạo nên những tác phẩm có giá trị cao về văn hóa và tư tưởng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét