Chùa tọa lạc tại ấp Bình Nhựt B, xã Long Hòa, thành phố Cần Thơ, với diện tích 11.000m2. ĐT: 071.841805. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Dòng sông trước chùa
Tam quan chùa (năm 2003)
Chùa Long Quang (năm 1994)
Mặt tiền chùa (năm 1994)
Chùa Long Quang (năm 1995)
Chùa Long Quang (năm 2003)
Chùa do Hòa thượng Liễu Huệ – Thiện Quyền, dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 37, tục danh Võ Văn Quyền, khai sơn năm Minh Mạng thứ năm (1824). Ban đầu, chùa là một am tranh. Đến năm 1935, Hòa thượng cho xây lại chùa và đặt tên chùa Long Trường.
Năm 1875, Hòa thượng Thích Quảng Hiền trụ trì, đã cho trùng tu chùa và đổi tên chùa Long Quang.
Năm 1893, Hòa thượng Thích Từ Quang trụ trì. Năm 1922, Hòa thượng đã cho tạc 50 pho tượng thờ bằng gỗ giáng hương, đặc biệt là bộ Thập bát La-hán rất sinh động. Hòa thượng viên tịch năm 1924.
Điện Phật (năm 2003)
Điện Phật
Tượng Bồ Tát Quan Âm
Tượng La Hán
Năm 1924, Hòa thượng Thích Trí Thới trụ trì. Năm 1930, Hòa thượng đã tổ chức xây dựng ngôi chùa quy mô. Hòa thượng viên tịch năm 1963.
Năm 1963, Hòa thượng Thích Chơn Khánh trụ trì. Năm 1965, Hòa thượng đã cho trùng kiến ngôi chùa. Hòa thượng viên tịch năm 1983.
Vị trụ trì từ năm 1992 đến nay là Đại đức Thích Bình Tâm đã hoàn thành việc trùng tu, mở rộng chùa thành một ngôi già lam cổ tự khang trang vào năm 1994 và 2003.
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1993.
Tượng Minh Vương (năm 2003)
Tượng Hộ Pháp
Tượng Tiêu Diện
Tượng Giám Trai
Tượng Ngũ Hành (năm 2003)
Tháp Tổ Từ Quang (năm 1994)
Tháp Tổ Từ Quang (năm 2003)
Vườn tháp
Tượng Bồ Tát Quan Âm
Long vị Tổ Ngộ Cảm–Từ Quang
Long vị Tổ khai sơn Liễu Huệ–Thiện Quyền
Bia chùa
Văn bản của chính quyền công nhận chùa, năm Minh Mạng thứ 16 (1825)
Văn bản về việc xây dựng chùa
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Thập bát la hán chùa Long Quang
Nằm bên kênh Rạch Cam (phường Long Hòa, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ), chùa Long Quang nổi tiếng gần xa với bộ tượng thập bát la hán 100 tuổi bằng gỗ căm xe, điêu khắc rất tinh xảo.
Chùa Long Quang được xây dựng khoảng năm 1824, thời vua Minh Mạng. Ban đầu, chùa chỉ là một cái am nhỏ, trải qua nhiều đời trụ trì, chùa được xây dựng và tu bổ khang trang như hiện nay. Chùa hiện được nhà nước công nhận là Di tích văn hóa cấp quốc gia vào năm 1993.
Bộ tượng thập bát la hán được các nghệ nhân tạc bằng gỗ căm xe. Đây là loại gỗ tốt, rất bền, không bị mối mọt, chịu được mưa nắng và giữ được màu sơn lâu. Tất cả các bức tượng đều được thực hiện từ gỗ căm xe nguyên khối chứ không phải chắp ghép từng phần. Mỗi pho tượng cao 80cm nhưng rất nặng, phải hai đến ba người khiêng lên mới nổi.
Mỗi pho tượng khắc họa một vị la hán ngồi trên mãnh thú với những tư thế khác nhau. Có vị thì đăm chiêu ánh mắt xa xăm, có vị dữ tợn, có vị vui vẻ lạ thường hay đang ngủ…18 pho tượng la hán hiện lên sinh động mang nhiều khoảnh khắc của cuộc sống nơi trần thế.
Ở mỗi bức tượng, người xem thấy được cái thần thái riêng biệt. Để làm được điều đó, các nghệ nhân xưa đã phải rất tỉ mẩm và công phu bằng những nét chạm khắc rất tinh xảo. Những chi tiết nhỏ nhất như mắt, ngón tay hay các góc cạnh y phục của các bức tượng… đều được chạm trổ tỉ mỉ. Mỗi bức tượng giống như là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ cho ta thấy được sự tài hoa của những nghệ nhân điêu khắc xưa.
Theo lời Đại đức Thích Bình Tâm, trụ trì chùa Long Quang và một số tài liệu chùa thu thập được thì bộ tượng la hán được Hòa thượng Từ Quang (pháp hiệu Ngộ Cảm, Trụ trì chùa vào những năm 1889) cho người khắc vào khoảng năm 1920 đến 1922. Các tượng đều do những thợ điêu khắc ở Cần Thơ thực hiện. Có thể nói đây là bộ tượng thập bát la hán bằng gỗ độc đáo mà chùa Long Quang lưu giữ.
Qua hai giai đoạn chiến tranh khốc liệt, điều đáng quý là Long Quang cổ tự còn bảo tồn được bộ tượng thờ bằng gỗ giáng hương gồm 50 pho được nhà sư Từ Quang cho tạc từ năm 1922. Trong đó, đặc biệt hơn cả là bộ Thập bát La hán - mỗi tượng cao 80 cm, được chạm khắc và đục đẽo từ một một khối gỗ nguyên. Đó là các tác phẩm do một nhóm nghệ nhân điêu khắc, đứng đầu là ông Tài Công Kiểm, người ở Cần Thơ, thực hiện.
Chùa Long Quang nằm bên bờ rạch Long Tuyền xưa (nay là rạch Bình Thủy), trên diện tích khoảng 7.000 m². Con đường vào chùa đã được trải nhựa, xe 16 chỗ có thể vào được. Tam quan được xây bằng gạch với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn công có gắn hoa văn. Bên trên nóc có gắn đôi rồng trắng ngẩng cao đầu quay ngược vào bánh xe luân hồi ở giữa. Hai cột chính có đôi hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Phía sau điện thờ chính là gian thờ Hậu Tổ. Ở giữa, đặt tượng thờ Đức Tổ Sư Lạt Ma. Nối tiếp chánh điện, gian thứ hai rộng 144 m² là bàn thờ tổ quốc và các vị trụ trì qua từng giai đoạn. Gian này còn được dùng làm nơi tiếp khách. Gian thứ ba là giảng đạo đường là thuyết pháp trong những ngày lễ lớn.
Chùa Long Quang được xây dựng khoảng năm 1824, thời vua Minh Mạng. Ban đầu, chùa chỉ là một cái am nhỏ, trải qua nhiều đời trụ trì, chùa được xây dựng và tu bổ khang trang như hiện nay. Chùa hiện được nhà nước công nhận là Di tích văn hóa cấp quốc gia vào năm 1993.
Chùa Long Quang được xây dựng khoảng năm 1824 vào thời vua Minh Mạng tại phường Long Hòa, quận Bình Thủy, Tp. Cần Thơ.
Bộ tượng thập bát la hán gần 100 tuổi được sơn son thếp vàng đặt hai bên chánh điện.
Mỗi bức tượng khắc họa một vị la hán ngồi trên mãnh thú với những tư thế khác nhau.
Trong ngôi chánh điện của chùa có 42 bức tượng, bài trí xung quanh 4 bức tường. Trong số đó, bộ tượng thập bát la hán gần 100 tuổi được sơn son thếp vàng nổi bật hai bên chánh điện.
Bộ tượng thập bát la hán được các nghệ nhân tạc bằng gỗ căm xe. Đây là loại gỗ tốt, rất bền, không bị mối mọt, chịu được mưa nắng và giữ được màu sơn lâu. Tất cả các bức tượng đều được thực hiện từ gỗ căm xe nguyên khối chứ không phải chắp ghép từng phần. Mỗi pho tượng cao 80cm nhưng rất nặng, phải hai đến ba người khiêng lên mới nổi.
Mỗi pho tượng khắc họa một vị la hán ngồi trên mãnh thú với những tư thế khác nhau. Có vị thì đăm chiêu ánh mắt xa xăm, có vị dữ tợn, có vị vui vẻ lạ thường hay đang ngủ…18 pho tượng la hán hiện lên sinh động mang nhiều khoảnh khắc của cuộc sống nơi trần thế.
Ở mỗi bức tượng, người xem thấy được cái thần thái riêng biệt. Để làm được điều đó, các nghệ nhân xưa đã phải rất tỉ mẩm và công phu bằng những nét chạm khắc rất tinh xảo. Những chi tiết nhỏ nhất như mắt, ngón tay hay các góc cạnh y phục của các bức tượng… đều được chạm trổ tỉ mỉ. Mỗi bức tượng giống như là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc gỗ cho ta thấy được sự tài hoa của những nghệ nhân điêu khắc xưa.
Theo lời Đại đức Thích Bình Tâm, trụ trì chùa Long Quang và một số tài liệu chùa thu thập được thì bộ tượng la hán được Hòa thượng Từ Quang (pháp hiệu Ngộ Cảm, Trụ trì chùa vào những năm 1889) cho người khắc vào khoảng năm 1920 đến 1922. Các tượng đều do những thợ điêu khắc ở Cần Thơ thực hiện. Có thể nói đây là bộ tượng thập bát la hán bằng gỗ độc đáo mà chùa Long Quang lưu giữ.
Bộ tượng 18 vị La Hán bằng gổ căm xe gần 100 tuổi nổi tiếng tại chùa Long Quang.
Bộ tượng Phật Bà và Kim Đồng, Ngọc Nữ (điêu khắc gỗ) tại chùa Long Quang.
Chị Lê Thị Bé Bảy, Phó Trưởng phòng Văn hóa và Thông tin quận Bình Thủy chia sẻ: “Các bức tượng ở chùa Long Quang chứa đựng những nét văn hóa, cuộc sống thế thái mà các nghệ nhân nhân miêu tả trong đó. Chùa Long Quang không chỉ là nơi tín ngưỡng thờ Phật mà còn là một điểm tham quan du lịch tâm linh của thành phố Cần Thơ”.
Bài: Nguyễn Oanh - Ảnh: Nguyễn Luân
Chùa cổ trên đất Long Tuyền
Hồ sen bán nguyệt trước sân chùa Hội Linh.
Trong nhóm chùa cổ ở đất Long Tuyền, ngoài Nam Nhã Đường còn có Hội Linh cổ tự, xây dựng vào năm Đinh Mùi năm 1907 và Long Quang cổ tự, do thiền sư Thiện Quyền lập vào năm Minh Mạng thứ 5 tức năm Giáp Thân (1824), đến nay gần 190 năm.
Long Quang cổ tự
Chùa Long Quang nằm bên bờ sông Bình Thủy; tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Chùa Long Quang nằm bên bờ sông Bình Thủy; tọa lạc tại số 155/6, khu vực Bình Chánh, thuộc phường Long Hòa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Tam quan chùa Long Quang.
Lúc đầu, chùa chỉ là một am nhỏ dựng bằng cây, lá, đến năm 1829, được trùng tu lại thành một ngôi chùa kiên cố. Trong khoảng thời gian này chùa được đặt tên là Long Trường với ý nguyện của thiền sư là mong cầu ngôi chùa được vững bền. Sau khi thiền sư Thiện Quyền qua đời, nhà sư Quảng Hiền vận động Phật tử góp công, góp của xây dựng chùa mới và đổi tên thành Long Quang tự - vừa là nơi tu hành, vừa bốc thuốc chữa bệnh và dạy chữ cho người dân nên được nhiều người biết đến.
Năm 1930, một lần nữa chùa lại được sự ủng hộ của các Phật tử và được xây dựng lại. Lần này chùa được xây bằng tường gạch, mái lợp ngói, gồm một ngôi chánh điện rộng ba gian và một nhà bếp.
Tháng 9 năm 1945, quân viễn chinh Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai. Chùa Long Quang trở thành cơ sở bí mật của các hoạt động chống Pháp. Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi tiêu thổ kháng chiến, trụ trì chùa lúc bấy giờ là thiền sư Trí Thới cùng với tăng chúng tháo dỡ toàn bộ nhà chùa để làm vật cản, ngăn tàu Pháp tại vùng Rạch Cam.
Năm 1963, chùa được xây cất lại trên nền đất cũ. Khi công trình gần xong, lại bị bom đạn chiến tranh làm hư hại nhiều nên phải xây lại. Đến năm 1966, ngôi chánh điện mới được xây xong. Thời kỳ chiến tranh sau đó, chùa Long Quang vẫn là cơ sở cách mạng ở Cần Thơ.
Ngày 21 tháng 6 năm 1993, chùa Long Quang đã được công nhận là di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 774-QĐ/BT của Bộ Văn hóa-Thông tin.
Năm 1930, một lần nữa chùa lại được sự ủng hộ của các Phật tử và được xây dựng lại. Lần này chùa được xây bằng tường gạch, mái lợp ngói, gồm một ngôi chánh điện rộng ba gian và một nhà bếp.
Tháng 9 năm 1945, quân viễn chinh Pháp trở lại Việt Nam lần thứ hai. Chùa Long Quang trở thành cơ sở bí mật của các hoạt động chống Pháp. Năm 1947, hưởng ứng lời kêu gọi tiêu thổ kháng chiến, trụ trì chùa lúc bấy giờ là thiền sư Trí Thới cùng với tăng chúng tháo dỡ toàn bộ nhà chùa để làm vật cản, ngăn tàu Pháp tại vùng Rạch Cam.
Năm 1963, chùa được xây cất lại trên nền đất cũ. Khi công trình gần xong, lại bị bom đạn chiến tranh làm hư hại nhiều nên phải xây lại. Đến năm 1966, ngôi chánh điện mới được xây xong. Thời kỳ chiến tranh sau đó, chùa Long Quang vẫn là cơ sở cách mạng ở Cần Thơ.
Ngày 21 tháng 6 năm 1993, chùa Long Quang đã được công nhận là di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 774-QĐ/BT của Bộ Văn hóa-Thông tin.
Ngày 21 tháng 6 năm 1993, chùa Long Quang đã được công nhận là di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 774-QĐ/BT của Bộ Văn hóa-Thông tin. |
Chùa Long Quang nằm bên bờ rạch Long Tuyền xưa (nay là rạch Bình Thủy), trên diện tích khoảng 7.000 m². Con đường vào chùa đã được trải nhựa, xe 16 chỗ có thể vào được. Tam quan được xây bằng gạch với hai tầng mái ngói, đầu mái uốn công có gắn hoa văn. Bên trên nóc có gắn đôi rồng trắng ngẩng cao đầu quay ngược vào bánh xe luân hồi ở giữa. Hai cột chính có đôi hai câu liễn đối bằng chữ Hán.
Bên trong chánh điện chùa Long Quang.
Ngôi chánh điện xây theo lối kiến trúc "Thượng lầu, hạ hiên" rộng 324 m2, với mái ngói và tường gạch, có hai cửa trước, một cửa sau và hai cửa ở hai bên hông. Giữa điện thờ chính, có treo bức hoành phi bằng gỗ chạm bốn chữ Hán “Đại hùng bảo điện”, bên dưới gắn khung bao lam chạm trổ hoa văn tinh xảo thếp vàng. Điện thờ chính bằng gỗ có hai bậc; bậc trên thờ tam thế Phật: A Di Đà Phật, Đại Thế Chí Bồ tát và Quan Thế Âm Bồ tát, tượng bằng gỗ cao hơn một mét theo tư thế ngồi. Bậc dưới thờ Phật Di Lặc.
Hai bên vách là kệ dài, đặt 18 tượng La hán bằng gỗ đã gần trăm năm tuổi. Kế tiếp bàn thờ Địa Tạng Bồ tát, phía sau là bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, hai bên có Nam Tào, Bắc Đẩu; hai bên bàn thờ Quan Thế Âm Bồ tát có Thiên Tài và Đồng Tử.
Phía sau điện thờ chính là bàn thờ Hậu Tổ. Phía trên là tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề, bên dưới có tượng Bồ Đề Đạt Ma. Chung quanh bày trí các long vị, các bức di ảnh của các cố trụ trì chùa. Sát vách hai bên cửa sau có đặt hai bàn thờ, bên phải thờ các tượng Quan Công, Giám Trai Sứ Giả và Thập Điện Minh Vương.
Phía sau tòa nhà chính điện là khu đất rộng trồng nhiều hoa kiểng, khu tháp nơi chứa di cốt của các cố trụ trì chùa trước đây.
Hội Linh Cổ Tự
Hai bên vách là kệ dài, đặt 18 tượng La hán bằng gỗ đã gần trăm năm tuổi. Kế tiếp bàn thờ Địa Tạng Bồ tát, phía sau là bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng đế, hai bên có Nam Tào, Bắc Đẩu; hai bên bàn thờ Quan Thế Âm Bồ tát có Thiên Tài và Đồng Tử.
Phía sau điện thờ chính là bàn thờ Hậu Tổ. Phía trên là tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề, bên dưới có tượng Bồ Đề Đạt Ma. Chung quanh bày trí các long vị, các bức di ảnh của các cố trụ trì chùa. Sát vách hai bên cửa sau có đặt hai bàn thờ, bên phải thờ các tượng Quan Công, Giám Trai Sứ Giả và Thập Điện Minh Vương.
Phía sau tòa nhà chính điện là khu đất rộng trồng nhiều hoa kiểng, khu tháp nơi chứa di cốt của các cố trụ trì chùa trước đây.
Hội Linh Cổ Tự
Cổng chùa Hội Linh.
Chùa Hội Linh thuộc hệ phái Bắc tông, dòng Thiền Tông Lâm Tế, tọa lạc trên diện tích 6.500 m² tại số 314/36 đường Cách Mạng Tháng Tám, thuộc phường Bùi Hữu Nghĩa, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.
Hội Linh cổ tự được Bộ Văn hóa Thông Tin công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia theo quyết định ngày 21 tháng 6 năm 1993. |
Chùa Hội Linh được xây dựng vào năm Đinh Mùi (1907), đến nay đã hơn một thế kỷ. Ban đầu chùa được cất đơn sơ với cột bằng cây, vách và mái lợp lá, quay mặt ra hướng sông Hậu, được đặt tên là Hội Long tự. Vì chùa nằm ở ngọn một con rạch nhỏ nên dân gian thường gọi tên là chùa Xẻo Cạn. Trong thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến 1975 chuà Hội Linh còn là căn cứ cách mạng ở Cần Thơ.
Mặt trước chánh điện chùa Hội Linh thờ tượng tam thế Phật trên tầng lầu.
Từ trung tâm thành phố, đi theo đường Cách Mạng Tháng Tám khoảng 2km, rẽ phải chừng 200 mét là đến chùa. Phía bên phải tam quan, chúng ta nhìn thấy một bia khắc ghi lịch sử chùa. Tuy đã được xây dựng lại nhưng tam quan vẫn mang vẻ cổ kính, dưới tán hai cây bồ đề to cao được trồng hai bên. Dãy tường rào hình cánh cung đưa cổng chính nhô ra phía trước. Hai bên có hai cổng phụ. Trên mỗi cổng chính và phụ đều có hai câu đối bằng chữ Hán đắp nổi. Trên mái cổng chính có gắn lưỡng long tranh châu bằng đất nung màu xanh.
Sau cổng chính là ao sen bán nguyệt. Hai bên ao trồng dương liễu rũ nhánh. Giữa ao có tượng Quan Thế Âm Bồ tát lộ thiên. Bên trái có hai bảo tháp to cao hơn 10 mét là nơi yên nghỉ của các vị trụ trì. Hai bên ao trước chánh điện có hai miếu nhỏ, bên trái là miếu Ngũ Hành, bên phải là miếu Thổ thần.
Sau cổng chính là ao sen bán nguyệt. Hai bên ao trồng dương liễu rũ nhánh. Giữa ao có tượng Quan Thế Âm Bồ tát lộ thiên. Bên trái có hai bảo tháp to cao hơn 10 mét là nơi yên nghỉ của các vị trụ trì. Hai bên ao trước chánh điện có hai miếu nhỏ, bên trái là miếu Ngũ Hành, bên phải là miếu Thổ thần.
Bên trong chánh điện chùa Hội Linh.
Chánh điện có mặt tiền ba gian, trên lầu ngay mặt tiền có tam thế Phật, gồm tượng Phật A Di Đà ở giữa, bên phải là tượng Đại Thế Chí Bồ tát, bên trái tượng Quan Thế Âm Bồ tát. Trên mái chia làm ba nóc được lợp bằng vật liệu xi măng đúc thành hình vảy cá, nóc giữa mái tạo dáng tròn cạnh lục giác, trên đỉnh là hình búp sen. Hai nóc hai bên đỉnh là bầu rượu, mái tạo hình phẳng cạnh tứ giác uốn cong lên. Ngôi chánh điện rộng 288 m², nóc cao hơn 9 mét, có hai cửa chính đi vào, chia thành ba gian. Bên trong là ba điện thờ trung tâm, có treo ba bức hoành phi khắc bằng chữ Hán ở giữa là “Hội Linh Tự”, bên trái “Tam vô tư địa”, bên phải “Thưởng thiện phạt ác”.
Điện thờ chính ở giữa thờ Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen (cao 1,5 mét). Điện bên trái, thờ Đại Thế Chí Bồ tát thếp vàng; điện bên phải, thờ Quan Thế Âm Bồ tát, cũng thếp vàng. Bàn phía dưới trước điện chính là pho tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn chiều dài khoảng 1,5 mét.
Điện thờ chính ở giữa thờ Phật A Di Đà ngồi trên tòa sen (cao 1,5 mét). Điện bên trái, thờ Đại Thế Chí Bồ tát thếp vàng; điện bên phải, thờ Quan Thế Âm Bồ tát, cũng thếp vàng. Bàn phía dưới trước điện chính là pho tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập niết bàn chiều dài khoảng 1,5 mét.
Chân cột chánh điện bằng gỗ kê trên nền đá có cẩn cánh sen.
Ngoài ra chung quanh mỗi điện có đặt nhiều tượng Phật như tượng Phật Địa Tạng cưỡi Kỳ Lân, các vị Kim Cang, tượng phán quan… Đối diện với nghi điện chính là bàn thờ Phật Thích ca đặt chung với hai ông Thiện, ông Ác đứng hai bên. Hai bên góc chánh điện đặt chiếc trống lớn và chuông bát nhã. Ở giữa chánh điện là tháp đèn Dược Sư có 49 ngọn đèn.
Phía sau điện thờ chính là gian thờ Hậu Tổ. Ở giữa, đặt tượng thờ Đức Tổ Sư Lạt Ma. Nối tiếp chánh điện, gian thứ hai rộng 144 m² là bàn thờ tổ quốc và các vị trụ trì qua từng giai đoạn. Gian này còn được dùng làm nơi tiếp khách. Gian thứ ba là giảng đạo đường là thuyết pháp trong những ngày lễ lớn.
Bài: Lâm Văn Sơn - Ảnh: Kim Dung
Tượng cổ chùa Long Quang ở Cần Thơ
Đến với vùng đất Bình Thủy tại Thành phố Cần Thơ, không ai không nhắc đến chùa Long Quang, ngôi chùa có lịch sử lâu đời, qua các giai đoạn lịch sử, với khoảng thời gian tồn tại gần 200 năm qua. Ngôi chùa do thiền sư Liễu Huệ khai sơn vào năm 1824, lịch sử ghi lại: Thiền sư Thiện Quyền “Ngài họ võ, huý văn Quyền. Ngài quy y với hoà thượng Thiên Ấn ở chùa Linh Quang (Gia Định). Ban đầu chùa là ngôi thảo am tranh, do số tín đồ quy theo Phật ngày thêm đông, thảo am trở nên chật chội. Năm 1835, hòa thượng cho xây chùa và đặt tên là Long Trường Tự, với ý nghĩa nguyện cầu chùa bền như trời đất như núi sông theo ý muốn của câu Hán tự “Dữ thiên địa long hưng – Hoà sơn hà trùng cửu”. Cũng vào năm Minh Mạng 16 (1835) chùa được liệt kê vào danh sách các tự viện và được miễn sưu thuế. Thiền sư Liễu Huệ đã sống hết lòng với sự tu hành tại chùa cho đến khi mãn phần”(1).
Long Quang cổ tự trải qua 7 đời trụ trì, đương nhiệm trụ trì hiện tại là Thượng tọa Thích Bình Tâm.
Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chùa Long Quang là nơi nuôi dưỡng và bảo hộ, che chở cho chiến sĩ cách mạng. Những hiện vật, đồ thờ tự, công trình kiến trúc… được lưu giữ cho đến ngày nay đã minh chứng cho giá trị lịch sử – văn hóa của ngôi tự viện này.
* Bộ tượng Di Đà Tam Tôn
Bộ tượng Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí: Tại bàn thờ chính được chia làm hai cấp và được trang trí có hoa văn, bậc cao nhất kê ba ghế, ngự ở ghế cao nhất trên bệ thờ tượng Phật A Di Đà.
Bậc thấp hơn, bên trái Bồ tát Đại Thế Chí, bên phải Bồ tát Quán Thế Âm. Hai pho tượng được tôn trí ngồi ở hai bên, đều làm bằng gỗ quý nguyên khối, không cắt ghép, trong tư thế toạ thiền.
* Tượng Di lặc Bồ tát
Tượng được đặt ở tầng dưới với dáng mập mạp. Tượng ngồi chân co chân xếp. Miệng cười hoan hỷ.
* Tượng Hộ Pháp và Tiêu Diện, Ông Thiện và Ông Ác
Tượng Hộ pháp với nét mặt nghiêm nghị chính trực. Tượng Tiêu Diện với nét mặt trong dữ tợn, lưỡi thè dài, trên đầu có sừng. Một tay cầm chiếc cờ và tay cầm chuông Kim Cang. Tại chính điện còn có tượng Ông Thiện và Ông Ác.
* Bộ tượng Thập Bát La Hán
Bộ tượng gồm 18 vị La Hán, mỗi tượng cao 80cm, được sơn son thếp vàng, có tư thế ngồi khác nhau.
* Tượng Bồ tát Địa Tạng
Tượng được bài trí tại bàn thờ nằm dọc theo dãy 18 vị La Hán. Tượng Địa Tạng Bồ tát ngồi trên mình Đề thính, đầu đội mũ thất Phật, với trang phục đắp y ca sa màu đỏ, một tay bắt ấn, một tay cầm hạt minh châu biểu thị cho trí tuệ, vì hạt minh châu có thể phát ra ánh sáng để soi đường cho vị Bồ tát vào cõi u minh. Ngài phát thệ nguyện khi nào những chúng sinh còn khổ nơi địa ngục chưa được thoát khổ thì Ngài còn là Bồ tát, chưa thể đắc thành Phật quả: “Địa ngục vị không, Thệ thành Phật, Chúng sinh tận độ, phương chứng bồ đề”.
* Tượng Chuẩn Đề
Tượng Chuẩn Đề được tôn trí ở phía sau chính điện, đặt ở bàn Tổ.
Ngoài các tượng kể trên, dọc theo hai bên hông chính điện còn thờ các vị thần thánh khác, đặc biệt là các vị thần linh trong hệ thống tín ngưỡng của người Hoa, như:
Bên hông phải chính điện (hướng từ cửa chính nhìn vào, cạnh tượng 9 vị La Hán và Địa Tạng) có thờ Giám Trai, Bồ Đề Đạt Ma, Quan Công; kế đến là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu. Bộ tượng Ngọc Hoàng và hai vị Nam Tào, Bắc Đẩu được chạm khắc bằng chất liệu gỗ. Theo văn hoá tín ngưỡng của người Việt Nam thì Ngọc Hoàng còn gọi là ông trời. Đứng ở hai bên là Nam Tào, Bắc Đẩu cao khoảng 70cm, việc thờ Ngọc Hoàng thượng đế theo sự tín ngưỡng của người Việt, chỉ cho vị trời tối cao ngự trị, có thể ban phước hay giáng hoạ và có quyền chi phối đến cuộc sống con người.
Bên hông trái chính điện (hướng từ cửa chính nhìn vào, cạnh tượng 9 vị La Hán, bộ tượng Quan Âm, Thiện Tài, Đồng Tử) là bộ tượng Diêm Vương, Long Vương và Phán Quan; tiếp đến bà bộ tượng Ngũ Hành. Bộ tượng năm Bà ngũ hành “là tên gọi năm vị thần nữ tượng trưng cho năm yếu tố trong vũ trụ: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ”(2). Theo tín ngưỡng phồn thực, việc người Việt Nam thờ Bà Ngũ hành để cầu mong bà phù hộ, độ trì, cầu sức khoẻ, cầu may mắn, tránh rủi ro, hoạn nạn, còn cầu trong việc làm ăn được thuận lợi.
Trong chính điện chùa Long Quang thờ nhiều vị thần thánh trong hệ thống tín ngưỡng dân gian là thể hiện mối giao thoa văn hóa giữa Phật giáo và tín ngưỡng, hoặc có thể xuất phát từ một nguyên nhân cốt lõi, đó là trước khi Phật giáo du nhập vào Nam Bộ thì trong các cơ sở tín ngưỡng, chùa, đình, miếu cổ xưa đã tôn thờ các vị thần thánh đó?
Qua phong cách mỹ thuật, về các pho tượng cổ ở chùa Long Quang với nhiều tượng thờ như thế do bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian. Đồng thời tính dung hòa qua sự giao lưu tiếp biến giữa Phật giáo với cộng đồng người Việt. Từ các pho tượng đa dạng, nó không chỉ là biểu tượng của Phật giáo. Bên cạnh đó, còn được thể hiện tính hỗn dung của Phật giáo giữa các nền văn hóa khác. Tạo nên nét văn hoá đặc trưng riêng biệt của văn hóa tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam.
CHÚ THÍCH:
1. Bộ Văn hóa Thông Tin (nay là bộ Văn Hóa – Thể Thao – Du Lịch), năm 1993, tr. 1.
2. Trần Hồng Liên (2004), Góp Phần Tìm Hiểu Phật Giáo Nam Bộ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 254.
3. Trần Hồng Liên (1997), Chùa Giác Lâm – Di tích lịch sử văn hóa, Nxb. Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Long Quang cổ tự trải qua 7 đời trụ trì, đương nhiệm trụ trì hiện tại là Thượng tọa Thích Bình Tâm.
Trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, chùa Long Quang là nơi nuôi dưỡng và bảo hộ, che chở cho chiến sĩ cách mạng. Những hiện vật, đồ thờ tự, công trình kiến trúc… được lưu giữ cho đến ngày nay đã minh chứng cho giá trị lịch sử – văn hóa của ngôi tự viện này.
Bộ tượng Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí: Tại bàn thờ chính được chia làm hai cấp và được trang trí có hoa văn, bậc cao nhất kê ba ghế, ngự ở ghế cao nhất trên bệ thờ tượng Phật A Di Đà.
Bậc thấp hơn, bên trái Bồ tát Đại Thế Chí, bên phải Bồ tát Quán Thế Âm. Hai pho tượng được tôn trí ngồi ở hai bên, đều làm bằng gỗ quý nguyên khối, không cắt ghép, trong tư thế toạ thiền.
Tượng được đặt ở tầng dưới với dáng mập mạp. Tượng ngồi chân co chân xếp. Miệng cười hoan hỷ.
Tượng Hộ pháp với nét mặt nghiêm nghị chính trực. Tượng Tiêu Diện với nét mặt trong dữ tợn, lưỡi thè dài, trên đầu có sừng. Một tay cầm chiếc cờ và tay cầm chuông Kim Cang. Tại chính điện còn có tượng Ông Thiện và Ông Ác.
Bộ tượng gồm 18 vị La Hán, mỗi tượng cao 80cm, được sơn son thếp vàng, có tư thế ngồi khác nhau.
Tượng được bài trí tại bàn thờ nằm dọc theo dãy 18 vị La Hán. Tượng Địa Tạng Bồ tát ngồi trên mình Đề thính, đầu đội mũ thất Phật, với trang phục đắp y ca sa màu đỏ, một tay bắt ấn, một tay cầm hạt minh châu biểu thị cho trí tuệ, vì hạt minh châu có thể phát ra ánh sáng để soi đường cho vị Bồ tát vào cõi u minh. Ngài phát thệ nguyện khi nào những chúng sinh còn khổ nơi địa ngục chưa được thoát khổ thì Ngài còn là Bồ tát, chưa thể đắc thành Phật quả: “Địa ngục vị không, Thệ thành Phật, Chúng sinh tận độ, phương chứng bồ đề”.
Tượng Chuẩn Đề được tôn trí ở phía sau chính điện, đặt ở bàn Tổ.
Ngoài các tượng kể trên, dọc theo hai bên hông chính điện còn thờ các vị thần thánh khác, đặc biệt là các vị thần linh trong hệ thống tín ngưỡng của người Hoa, như:
Bên hông phải chính điện (hướng từ cửa chính nhìn vào, cạnh tượng 9 vị La Hán và Địa Tạng) có thờ Giám Trai, Bồ Đề Đạt Ma, Quan Công; kế đến là Ngọc Hoàng và Nam Tào, Bắc Đẩu. Bộ tượng Ngọc Hoàng và hai vị Nam Tào, Bắc Đẩu được chạm khắc bằng chất liệu gỗ. Theo văn hoá tín ngưỡng của người Việt Nam thì Ngọc Hoàng còn gọi là ông trời. Đứng ở hai bên là Nam Tào, Bắc Đẩu cao khoảng 70cm, việc thờ Ngọc Hoàng thượng đế theo sự tín ngưỡng của người Việt, chỉ cho vị trời tối cao ngự trị, có thể ban phước hay giáng hoạ và có quyền chi phối đến cuộc sống con người.
Bên hông trái chính điện (hướng từ cửa chính nhìn vào, cạnh tượng 9 vị La Hán, bộ tượng Quan Âm, Thiện Tài, Đồng Tử) là bộ tượng Diêm Vương, Long Vương và Phán Quan; tiếp đến bà bộ tượng Ngũ Hành. Bộ tượng năm Bà ngũ hành “là tên gọi năm vị thần nữ tượng trưng cho năm yếu tố trong vũ trụ: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ”(2). Theo tín ngưỡng phồn thực, việc người Việt Nam thờ Bà Ngũ hành để cầu mong bà phù hộ, độ trì, cầu sức khoẻ, cầu may mắn, tránh rủi ro, hoạn nạn, còn cầu trong việc làm ăn được thuận lợi.
Trong chính điện chùa Long Quang thờ nhiều vị thần thánh trong hệ thống tín ngưỡng dân gian là thể hiện mối giao thoa văn hóa giữa Phật giáo và tín ngưỡng, hoặc có thể xuất phát từ một nguyên nhân cốt lõi, đó là trước khi Phật giáo du nhập vào Nam Bộ thì trong các cơ sở tín ngưỡng, chùa, đình, miếu cổ xưa đã tôn thờ các vị thần thánh đó?
Qua phong cách mỹ thuật, về các pho tượng cổ ở chùa Long Quang với nhiều tượng thờ như thế do bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian. Đồng thời tính dung hòa qua sự giao lưu tiếp biến giữa Phật giáo với cộng đồng người Việt. Từ các pho tượng đa dạng, nó không chỉ là biểu tượng của Phật giáo. Bên cạnh đó, còn được thể hiện tính hỗn dung của Phật giáo giữa các nền văn hóa khác. Tạo nên nét văn hoá đặc trưng riêng biệt của văn hóa tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam.
Thích Nữ Phước Đăng – Học viên Cao học khóa II HVPGVN tại Tp.HCM
——————–
CHÚ THÍCH:
(1) Bộ Văn hóa Thông Tin (nay là bộ Văn Hóa – Thể Thao – Du Lịch), năm 1993, tr. 1.
(2) Trần Hồng Liên (2004), Góp phần hìm hiểu Phật giáo Nam Bộ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 254
(2) Trần Hồng Liên (2004), Góp phần hìm hiểu Phật giáo Nam Bộ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 254
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Văn hóa Thông Tin (nay là bộ Văn Hóa – Thể Thao – Du Lịch), năm 1993, tr. 1.
2. Trần Hồng Liên (2004), Góp Phần Tìm Hiểu Phật Giáo Nam Bộ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 254.
3. Trần Hồng Liên (1997), Chùa Giác Lâm – Di tích lịch sử văn hóa, Nxb. Khoa học Xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét