25 tháng 9, 2021

Chùa Nam Nhã

Tên thường gọi: Chùa Nam Nhã

Chùa tọa lạc tại số 612 đường Cách mạng Tháng Tám, phường An Thới, thành phố Cần Thơ.

Chùa được dựng vào năm 1895. Chùa theo phái Minh Sư nên còn được gọi là chùa Minh Sư.

Toàn cảnh chùa

Dòng sông trước chùa

Chùa Nam Nhã

Mặt tiền chùa

Chùa được trùng tu năm 1917. Ở chánh điện, có 3 pho tượng thờ bằng đồng là tượng đức Phật Thích Ca, đức Khổng Tử và đức Lão Tử.

Trước sân chùa có tấm bia di tích ghi rõ năm thành lập chùa và cho biết chùa trước đây là trụ sở kinh tài, ủng hộ học sinh xuất dương du học trong phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu; là cơ sở liên lạc của Đặc ủy Hậu Giang, Xứ ủy Nam Kỳ. 

Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1991.

Điện thờ Phật

Bàn thờ Tam giáo

Tượng Hộ Pháp

Bia chùa

Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Nam Nhã Đường, một danh lam xứ Cần Thơ 

Di tích lịch sử cấp quốc gia Nam Nhã đường ở thành phố Cần Thơ, tọa lạc bên bờ sông Long Tuyền, đối diện với đình Bình Thủy, là một di tích không chỉ đẹp bởi kiến trúc, chữ nghĩa, hay không gian trang nhã mà còn ở những giá trị tôn giáo, lịch sử tiềm ẩn... 

Đức Tế Phật đường

Đối diện với đình Bình Thủy cổ kính, còn có tên là Long Tuyền cổ miếu, qua con sông Long Tuyền, là ngôi chùa thấp thoáng mái ngói đỏ, cây cổ thụ tỏa bóng. Cổng chính của chùa đề “Nam Nhã Đường”. Hai bên cổng có đôi câu đối, hai chữ đầu ghép thành tên chùa: “Nam địa độ nguyên nhân, bát nhã cầm thanh thông giác lộ/ Nhã đình chiêu thiện khách, bồ đề thụ ảnh cái thiền môn” (nghĩa là: Nam địa độ nguyên nhân, Bát nhã tiếng đàn thông giác lộ / Nhã đình mời thiện khách, Bồ Đề bóng mát rợp thiền môn). Cả ba cổng đều có mái, có câu đối chữ nghĩa hàm súc.

Sân chùa nhiều cây tùng, trắc bách diệp và nhiều cây cổ thụ khác, giữa sân có núi non bộ lớn và một bể trồng sen lá xanh mướt, tạo một không gian thanh tịnh. Ngôi cổ tự mặt tiền kiểu phương Tây với những vòm cong, nhưng mái chùa có lưỡng long tranh châu kiểu Đông Tây kết hợp, tấm hoành phi nền vàng, chữ đỏ trên cửa chính vào nội điện đề “Đức Tế Phật Đường”, vậy là nơi đây ngoài tên Nam Nhã, còn có tên là Đức Tế.

Thầy Thiện Đức. 

Năm 1890, ngôi chùa được xây dựng đơn sơ, lợp lá. Đến năm 1917, Thái lão sư Nguyễn Đạo Cơ, người làng Bình Thủy, học trò của Bùi Hữu Nghĩa cùng ban chủ sự hưng công xây dựng lại. Thái cô Mai Kim Lan, con gái một vị điền chủ lớn ở Hậu Giang đã cúng 44 công đất. Năm 1923, Phật đường được hoàn thiện có quy mô hiện nay.

Phật đường có hệ thống chữ Hán rất phong phú, ngoạn mục, lưu lại nét bút tài hoa của tiền nhân. Ngoài những chữ mang nội dung tôn giáo, có hoành phi đề “Tùng Cúc Mậu” mang phong vị Nho gia. Ngoài ra, chùa còn lưu giữ hàng trăm mộc bản khắc in kinh sách được khắc cách đây một thế kỷ, chứng tỏ rất nhiều trí thức Nho học đã vân tập tại đây.

Tấm bia quốc ngữ dựng ở sân chùa giới thiệu cho hay, từ năm 1905 chịu ảnh hưởng của phong trào Đông Du, truyền thống yêu nước của các vị lão sư và các Phật tử được khởi động. Chùa trở thành trụ sở kinh tài, ủng hộ học sinh xuất dương du học chống lại chính sách ngu dân của thực dân Pháp, truyền bá văn thơ yêu nước.

Theo nhiều tài liệu, Phan Bội Châu và Cường Để đã lưu lại chùa này một thời gian để vận động ủng hộ phong trào Đông Du. Theo cuốn “Vĩnh Long vùng đất và con người” của Nguyễn Chiến Thắng, hưởng ứng lời kêu gọi của cụ Phan, cho con em xuất dương sang Nhật, Cai tổng Cần Thơ kiêm Hội trưởng Hội khuyến học tỉnh Nguyễn Thần Hiến đã ủng hộ số tiền tương đương 300 lượng vàng; thương gia Lâm Bình cho hai con mang theo số tiền tương đương 70 lượng vàng; điền chủ Lưu Đình Ngoạn bán 72 mẫu ruộng để ủng hộ 450 lượng vàng…

Nam tông Minh sư đạo

Nam Nhã đường không phải là ngôi chùa theo nghĩa thông dụng là nơi thờ Phật, mà là Phật đường của Nam tông Minh Sư đạo.

Một thanh niên trẻ thanh tú, mặc quần áo nâu sẫm, đeo tràng hạt ra tiếp chúng tôi. Hỏi ra mới biết đó là thầy Thiện Đức, tu sĩ của Nam Nhã đường. Theo thầy Thiện Đức, Minh Sư đạo thờ theo ngũ hành gồm: Thiên bàn thuộc Hỏa; Long thần hộ pháp thuộc Thủy; Lịch đại tổ sư thuộc Kim; Lịch đại tông thân (bá tánh) thuộc Mộc và Ngũ phương Thổ thần thuộc Thổ.

Gian chánh điện thờ Tam giáo Thánh nhân với ba pho tượng đồng cao chừng 80cm đặt trong khám, chính giữa là Đức Thích Ca Văn Phật, hai bên là Đức Khổng Tử Chí Thánh và Đức Lão Tử Đạo Tổ. Nhìn cách thiết trí chánh điện chúng tôi nghĩ rằng, mặc dù với một xuất xứ khác nhưng Minh Sư đạo cũng tương đồng với quan niệm Tam giáo đồng nguyên thời Lý -Trần, đã góp phần tạo nên nền văn minh Đại Việt rực rỡ.

Phía trước ba pho tượng chính là ba pho tượng nhỏ hơn, chính giữa nhưng để thấp hơn là vị Thiên Nguyên Cổ Phật, hai bên là Diêu Trì Kim Mẫu và Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Điều đặc biệt là ở bàn thờ chính điện có treo ngọn đèn có tên là Vô cực huyền đăng, còn gọi là Nhiên Đăng luôn thắp sáng, được treo bằng trong một khung tròn, dưới ngọn đèn đặt một bình tịnh thủy (nước trong), hai bên bình nước là hai chiếc đĩa sứ nhỏ đặt trên đế cao. Bình tịnh thủy tượng trưng cho ngôi Thái cực, hai chén nước hai bên là lưỡng nghi, với chén cơm ở giữa hợp lại là Tam tài, tượng trưng cho Thiên – Địa – Nhân. Phía trong cùng, dưới các pho tượng là một tấm gương để nhắc tín đồ phải luôn hồi quang phản chiếu.

Điều khác biệt nữa là ngày thường thì thắp hương nhưng khi có lễ thì không thắp hương mà đốt bột thơm. Thầy Thiện Đức cho chúng tôi xem hai chiếc thố sứ nhỏ đặt hai bên lư hương, trong đó một thố là bột hương, một thố đựng những thanh gỗ trắc bách diệp như những que diêm. Khi hành lễ, bột thơm được đổ vào lư hương và những mẩu trắc bách diệp được đốt cháy cắm vào bột thơm, tỏa một mùi hương thanh nhã. Lễ vật bao gồm cơm, năm loại trái cây và năm loại thức ăn khô, tuyệt đối không dùng rượu thịt.

Tu sĩ không cắt tóc

Khác với giáo phẩm Phật giáo, trong Minh Sư đạo, các tu sĩ được phân cấp gồm ba bậc. Bậc Thượng thừa gồm: Thái Lão sư (Tổ sư), Thập địa Lão sư (Đại Trưởng lão – không quá 10 người), Bổ thiệt Lão sư (Đại Lão sư), Đảnh hàng Lão sư (Trưởng lão). Bậc Trung thừa gồm: Bảo ân, Dẫn ân, Chứng ân và Thiên ân. Bậc Hạ thừa gồm: Tam bộ, Nhị bộ, Nhất bộ, Sám hối (ăn chay trường, giữ giới đạo) và Quy y Hộ đạo (ăn chay kỳ). Nữ phái chỉ cầu đạo trong phạm vi hai bậc là Hạ thừa và Trung thừa (phẩm cao nhất là Bảo ân). Minh Sư đạo tu vô vi, không chấp tướng, tu sĩ không thí phát (cắt tóc) nhưng bắt buộc người tu phải ăn chay trường, tuyệt dục, giữ giới luật Đạo pháp.

Hiện nay tại Nam Nhã đường, bên phải ở dãy nhà Càn đạo có 7 nam tu sĩ, bên trái là Khôn đạo có 6 nữ tu sĩ, hai dãy nhà có hành lang dẫn lên chánh điện. Đạo phục của nam tu sĩ khi hành lễ là áo rộng màu đen, quần trắng, đội mão màu đen, mang giày vải đen. Nữ phái để đầu trần, chân mang hài nhung đen.

Dù cho nam nữ cùng ở, cùng tu nhưng bảng quy định được treo nơi Phật đường ghi rõ là tuyệt đối cấm nam nữ tu sĩ trò chuyện, tiếp xúc riêng tư với nhau, khi tiếp xúc chỉ được bàn về đạo pháp và công việc chung của Phật đường.

Sân trước Nam Nhã Đường. 

Ngồi trò chuyện với thầy Thiện Đức trên bộ tràng kỷ kê ở nhà Càn đạo, tôi băn khoăn về chữ “nguyên nhân” ở câu đối ngoài cổng, không biết diệu ý là gì, thầy Thiện Đức giải thích: Minh Sư đạo chia thế giới thành ba cõi: Thiên giới, Địa giới và Thủy giới. Địa giới là cõi âm phủ, Thủy giới là thế giới loài người, Thiên giới là cõi trời. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị chủ tể ngự trị ở cõi trời, nhưng chưởng quản cả hai thế giới còn lại.

Giáo lý chia thời gian thành ba kỳ tức Tam nguyên: Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên, mỗi kỳ có 12 Hội; mỗi Hội là 10.800 năm. Thượng nguyên là giai đoạn Diêu Trì Kim Mẫu tạo lập thiên địa. Lúc bấy giờ ngài cho 96 ức Nguyên nhân (Linh căn) xuống trần, đến nay đã trải qua đời Thượng nguyên, Trung nguyên và sắp hết đời Hạ nguyên mà chỉ có 4 ức Nguyên nhân trở về với mẹ. Như vậy còn 92 ức Nguyên nhân đang chìm trong biển trầm luân, đời mạt kiếp sắp tới, Di Lặc Cổ Phật sẽ xuống trần lập Hội Long Hoa, tế độ tất cả các Linh căn đó.

Về các tu sĩ đang tu hành tại Nam Nhã đường, thầy Thiện Đức chia sẻ, đường chủ của Nam Nhã đường hiện nay là Đại Tiên sanh Hồ Minh Phong, vốn là một cử nhân công nghệ thông tin. Thầy Thiện Đức cũng tốt nghiệp Đại học Xây dựng, đã ăn chay trường từ thời còn học phổ thông, nhưng sau khi tốt nghiệp đại học mới quy y. Trong Phật đường còn có một vị là kỹ sư nông nghiệp…

Hiện nay, Minh Sư đạo có 53 Phật đường hoạt động ở 18 tỉnh, thành phố từ Hà Nội đến TP Hồ Chí Minh và nhiều nhất là đồng bằng sông Cửu Long với 300 chức sắc, hơn 1.262 chức việc và trên 11.224 tu sĩ, tín đồ. Tổ đình của Minh Sư đạo đặt tại Quang Nam Phật Đường ở quận 1, TP Hồ Chí Minh.

*

Chia tay thầy Thiện Đức, hòa vào dòng xe cộ tấp nập, chúng tôi nghĩ rằng, Nam Nhã là điểm đến để lòng người lắng lại, bớt chuyện sân si, phiền não cho cuộc sống được an bình. Cần Thơ là thành phố trù phú, đang phát triển từng ngày, những di tích như chùa Nam Nhã, đình Bình Thủy, khu lưu niệm Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa… là những viên ngọc quý về bề dày văn hóa, tinh thần và tâm linh, tô điểm cho mảnh đất gạo trắng nước trong này.

Nguyễn Phan Khiêm
Chùa Nam Nhã - ngôi chùa nửa Tây nửa Ta ở Cần Thơ

Chùa Nam Nhã không chỉ nổi tiếng về kiến trúc độc đáo, mà còn bởi lịch sử của chùa gắn liền với nhiều hoạt động yêu nước nửa đầu thế kỷ 20. 

Nằm bên bờ sông Bình Thủy, chùa Nam Nhã là ngôi chùa cổ nổi tiếng bậc nhất của TP Cần Thơ. Chùa được xây dựng năm 1895 và trải qua các lần tôn tạo lớn vào năm 1905, 1917 và 1923 để có quy mô và kiến trúc như ngày nay.
 
Cổng chùa được xây bằng gạch, lợp ngói. Ở hai cột có đôi câu đối, mà hai chữ đầu của mỗi câu ghép lại thành tên chùa, phiên âm Hán–Việt là: Nam địa độ nguyên nhân, bát nhã cầm thanh thông giác lộ. Nhã đình chiêu thiện khách, bồ đề thụ ảnh cái thiền môn.

Chùa tọa lạc trong một khuôn viên rộng và có nhiều cây xanh. Giữa vườn là hòn non bộ cao trên 2 m được đặt trong một bồn nước xây bằng gạch. Trong vườn trồng nhiều cây tùng, cây trắc và các cây cổ thụ khác. Đan xen dưới những gốc cây này là những cây cảnh quý, được cắt uốn công phu.

Chính điện của chùa là một ngôi nhà gạch kiên cố, gồm 5 gian, lợp ngói âm dương, trên có hình lưỡng long tranh châu. Đặc biệt, mặt tiền chánh điện có kiểu kiến trúc Á-Âu kết hợp hồi đầu thế kỷ 20, khác với kiểu chùa truyền thống ở Nam Bộ. 

Những họa tiết hoa lá mang đậm nét phương Tây trên chính điện.

Bên trong chánh điện, ở khu trung tâm được bày trí rất trang trọng dùng làm nơi đặt bàn thờ Quan Thánh Đế Quân, Lịch Đại Tổ Sư và người lập chùa là Nguyễn Giác Nguyên.

Bàn thờ Tam giáo có ba pho tượng thờ bằng đồng là Phật Thích Ca, Khổng Tử và Lão Tử, thể hiện tinh thầm Tam giáo đồng nguyên của người Việt

Bên phải và bên trái chùa là 2 dãy nhà lợp ngói gọi là Đông Lan đường (còn gọi là Cần đạo đường) dùng cho nam giới và Tây Lan đường (còn gọi là Khôn đạo đường) dùng cho nữ giới ăn thông với nhà bếp. 

Chùa Nam Nhã không chỉ nổi tiếng về kiến trúc độc đáo, mà còn bởi lịch sử của chùa gắn liền với nhiều hoạt động yêu nước nửa đầu thế kỷ 20. Từ năm 1905, chịu ảnh hưởng của phong trào Đông Du, chùa trở thành trụ sở kinh tài, ủng hộ học sinh xuất dương du học chống lại chính sách ngu dân của thực dân Pháp, truyền bá văn thơ yêu nước. 

Trong những năm khó khăn gian khổ của cuộc kháng chiến chống Pháp, Đặc ủy Hậu Giang, Xứ ủy Nam Kỳ đã chọn nơi đây làm địa điểm liên lạc với các tổ chức cách mạng trong toàn miền. Với vị trí lịch sử như vậy, chùa đã được công nhận Di tích Lịch sử Cách mạng từ năm 1991.

Nam Nhã Đường

Khi nghe cái tên Nam Nhã Đường người ta thường nghĩ đến một ngôi trường hoặc hiệu thuốc bắc hơn là một ngôi chùa. Nam Nhã Đường - ban đầu cũng là tên của một tiệm thuốc bắc do ông Nguyễn Giác Nguyên đứng ra xây dựng từ năm 1895. Cũng chính cơ sở kinh doanh này là một trong những nguồn lực kinh tài hỗ trợ cho hoạt động của phong trào Đông du vào đầu thế kỷ XX.

Chánh điện - còn gọi là Diêu Trì Bửu điện - theo kiến trúc pha trộn hài hòa Á - Âu.

Du khách đến Cần Thơ, theo đường Cách Mạng Tháng Tám đi lên Bình Thủy, sẽ thấy Nam Nhã Đường nằm ở vị trí bên phải đầu vàm Bình Thuỷ, đối diện đình Bình Thủy bên kia sông. Nơi này, xưa thuộc ấp Bình Nhật, xã Long Tuyền (nay thuộc phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ).

Chủ nhân Nam Nhã Đường, ông Nguyễn Giác Nguyên (tức Nguyễn Phương Thảo) là học trò của cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa. Ông cùng với em của ông là ông Nguyễn Giác Cung sáng lập chùa Nam Nhã, một mặt làm nơi lễ bái cho tín hữu đạo Minh Sư trong vùng, nhưng mục đích chính là làm trụ sở liên lạc, hội họp bí mật của các tổ chức đấu tranh chống Pháp, phong trào Ðông Du ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thời kỳ đó hai nhà cách mạng là Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể và cụ Phan Bội Châu đã nhiều lần lui tới Nam Nhã Đường.

Nam Nhã Đường nhìn từ đình Bình Thuỷ, toạ lạc trong khung cảnh xanh mát, sông nước hữu tình, yên bình. 

Chùa Nam Nhã - còn gọi chùa Minh Sư - nằm trong khung cảnh tĩnh mịch với cảnh trí đơn sơ bên bờ sông Bình Thuỷ. Chung quanh là khu vườn rợp mát. Trong vườn, trước đây được trồng nhiều loại cây quý như tùng, trắc và các cây cổ thụ khác. Dưới bóng mát những gốc cây này là những cây kiểng quý giá, nhiều tuổi, được chăm chút công phu tạo cảnh quan an bình thoát tục.

Bao quanh chùa là tường rào được quét vôi màu vàng với một cổng vào xây gạch, lợp ngói, có bảng ghi ba chữ Hán là Nam Nhã Đường. Hai bên cổng có hai câu liễn đối lấy hai chữ đầu là chữ Nam và chữ Nhã. Câu bên phải đề là “Nam địa độ nguyên nhân, bát nhã cầm thinh thông giác lộ”, câu bên trái ghi là “Nhã đình chiêu thiện khách, bồ đề thụ ảnh cái thiền môn”. Tạm dịch: Nam địa độ nguyên nhân, tiếng đàn Bát Nhã thông cõi giác. Và Nhã đình mời thiện khách, bóng mát bồ đề phủ cửa thiền. Các liễn đối trong chùa cũng có nội dung vừa dạy đạo vừa dạy đời, khơi gợi lòng yêu nước, nghĩa tình dân tộc.

Tam quan vào Nam Nhã Đường. 

Chánh điện chùa Nam Nhã tọa lạc trong một khuôn viên rộng lớn, chung quanh sân rộng. Trước mặt chùa là đầu vàm rạch Long Tuyền xưa, nay là sông Bình Thuỷ. Trong vườn trồng nhiều cây xanh nên cảnh quan luôn mát mẻ. Do gần bờ sông nên quanh năm gió reo rì rào, thoáng mát.

Sân chùa lát gạch tàu. Giữa sân là hòn non bộ cao trên 2 mét được đặt trong một bồn nước xây bằng gạch. Giữa sân có một bia di tích. Quay sang trái là toà nhà chánh điện với kiến trúc Á Âu kết hợp. Một vị trong ban Trị sự chùa cho biết, lúc đầu chùa chỉ có ba gian với cột gỗ, cổng và mái lợp ngói rất đơn sơ. Đến năm 1905, chùa được mở rộng với năm gian hai chái.

Năm 1917, cụ Nguyễn Giác Nguyên và em là cụ Nguyễn Giác Cung, cùng Ban Trị sự chùa góp công sức lo xây dựng cho đến năm 1923, chùa lại được tu bổ và hoàn thiện thêm một lần nữa với quy mô lớn như ngày nay gồm một ngôi nhà gạch kiên cố có kiểu kiến trúc Á-Âu kết hợp ở thời kỳ đầu thế kỷ XX, lợp ngói âm dương, trên đỉnh mái có hình lưỡng long tranh châu.

Chính điện là một tòa nhà lớn uy nghi nằm ở giữa, gọi là Diêu Trì Bửu Điện. Đạo Minh Sư thiết kế bàn thờ theo dịch lý - một triết lý mô tả, diễn nghĩa một lý lẽ, một lý thuyết hay một nguyên lý nào đó. Hai gian hai bên là Đông Lan đường còn gọi là Cần Đạo đường dùng cho nam giới và Tây Lan đường là còn gọi là Khôn đạo đường dùng cho nữ giới. Gian Tây Lan đường này ăn thông với gian nhà bếp.

Bàn thờ Tam Giáo, gồm Phật Thích ca, Khổng Tử và Lão Tử theo thuyết Tam Giáo  Đồng Nguyên. 

Trên bàn thờ có tấm gương lớn để nhắc tín đồ luôn hồi quang phản chiếu chân tâm. 

Bên trong chánh điện, ở khu trung tâm được bày trí rất trang nghiêm là nơi đặt bàn thờ Tam giáo thể hiện tôn chỉ Tam giáo đồng nguyên. Tam giáo bao gồm Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo. Tam giáo đồng nguyên là ba nền tôn giáo đều do cùng một gốc mà ra. Bàn thờ có ba pho tượng bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, Khổng Tử và Lão Tử. Bàn đối diện là nơi thờ Trấn đàn Hộ pháp Bùi Hữu Sanh và nhà thơ Bùi Hữu Nghĩa. Bàn bên phải thờ Quan Thánh Đế Quân, Lịch Đại tổ sư và người lập chùa là cụ Nguyễn Giác Nguyên. Hai bên tiền điện có hai bàn hương án đặt bài vị của các vị sư trụ trì.

Có một điểm đặc biệt là từ ngoài cửa chính nhìn vào phía tay trái ngang với bàn thờ Quan Thánh Đế Quân là một bàn thờ mà trên bàn đó có đặt một tấm kiếng soi mặt lớn. Khi các thiện nam tín nữ đến tụng kinh niệm Phật đều quỳ trước tấm kiếng nầy. Ðược biết tấm kiếng này một mặt dùng để nhắc tín đồ phải luôn hồi quang phản chiếu, phản ánh cái chân tâm của mình; mặt khác giúp cho người đứng quay lưng ra ngoài phát hiện kịp thời kẻ lạ mặt để cảnh giác ở mỗi lần họp kín trong thời kỳ chống Pháp.

Đến chùa Nam Nhã nếu chú ý du khách sẽ nhận thấy Đạo Minh Sư chưng dĩa trái cây gồm năm thứ trái cây và thức ăn cũng gồm năm món chay để tượng trưng cho ngũ hành. Trang phục của nam nữ tín đồ chùa Nam Nhã từ Phật tử cho đến các bậc Lão Sư, Cô Thái chỉ toàn là màu đen, từ khăn áo cho đến quần và dép cũng đen.

Chùa Nam Nhã hay Đạo Minh Sư trước đây cũng như các chùa thờ Phật ở Việt Nam chủ trương ăn chay niệm Phật, nhưng lại không cạo đầu, không có sư sãi, không mặc áo nâu sồng. Thiện nam tín nữ đến lễ Phật mặc quần áo gì cũng được miễn là kín đáo và nghiêm trang.

Trong các nghi lễ cúng bái ở Nam Nhã đường, tất cả từ Phật tử cho đến các bậc Lão Sư, Cô Thái chỉ dùng trang phục toàn một màu đen; từ khăn áo cho đến quần và dép. 

Chùa tập trung dạy Phật tử tu tâm dưỡng tánh, sống giản dị, “thiểu dục, tri túc”, tự lực sản xuất để tồn tại và phát triển. Cho đến nay, nếu đến viếng chùa Nam Nhã ngay dịp một lễ cúng nào đó, du khách vẫn cảm nhận được lối sống giản dị đó. Cho dù tấp nập người ra, kẻ vào nhưng lúc nào cũng thấy một không khí tĩnh lặng.

Trong thời kỳ chống Pháp, để che mắt thực dân Pháp, chùa phổ biến nhiều loại sách lịch sử nói về Phù Ðổng Thiên vương, Hai Bà Trưng, Bạch Ðằng giang, ải Chi Lăng,… kích thích tinh thần yêu nước xen lẫn với tác phẩm Hải Ngoại Huyết Thư của cụ Phan Bội Châu. Có nhiều tác phẩm như Đạo Nam kinh – kinh nhắc nhở tinh thần yêu nước do chùa phổ biến bị Pháp liệt vào loại sách cấm. Nhiều tác phẩm có giá trị trong thời kỳ đó đề cao việc học vấn, chống mê tín dị đoan, đề cao giá trị tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhằm giúp người dân nâng cao nhận thức.

Sau chính điện của chùa là một vườn cây ăn trái, những ngôi mộ của những người sáng lập chùa và sĩ phu phong trào Đông Du. Chùa Nam Nhã là một địa chỉ được sử sách ghi chép tỉ mỉ và lưu giữ cẩn thận vì lịch sử hình thành và phát triển của chùa gắn liền với phong trào cách mạng của nhân dân cùng với lòng ái quốc của những sĩ phu yêu nước trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ngày 25 tháng 1 năm 1991, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) đã ra quyết định công nhận chùa Nam Nhã là Di tích Lịch sử Quốc gia.

Chùa Nam Nhã thuận tiện đến được bằng đường sông lẫn đường bộ và được nổi tiếng trong vùng không chỉ từ vẻ đẹp của kiến trúc thanh nhã, từ khung cảnh tĩnh mịch giúp thân tâm an lạc mà còn bởi là nơi đã từng có những hoạt động thầm lặng cho thúc đẩy nâng cao nhận thức và dân trí cho người Việt Nam ở Nam bộ ngày nào. Những người chăm sóc chùa qua từng thời kỳ vẫn ngày đêm kiên trì lặng lẽ công phu trong suốt quá trình sống và tu niệm. Nếu ai đó có dịp ghé qua, đọc đôi câu thơ, ngẫm đôi câu liễn, cúi đầu cẩn trọng trước những giá trị tâm linh của một thời cha ông ta đã âm thầm phụng sự Tổ Quốc thân yêu rồi cũng nhẹ nhàng trở gót ra về.

Bài: Lâm Văn Sơn - Ảnh: Kim Dung

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét