7 tháng 9, 2021

Chùa Thập Tháp Di Đà

Tên thường gọi: Chùa Thập Tháp

Chùa Thập Tháp Di Đà tọa lạc ở thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. ĐT: 056.839363. Chùa thuộc hệ pháp Bắc tông.

Toàn cảnh chùa

Cổng chùa

Mặt tiền chùa (năm 2002)

Mặt tiền chùa (năm 1989)

Theo quốc lộ I từ Quy Nhơn ra Quảng Ngãi, qua khỏi thị trấn Đập Đá, đến cầu Vạn Thuận, có con đường bên trái khoảng 200m dẫn vào chùa.

Tên chùa “Thập Tháp” là nguyên trước đây trên khu đồi này có 10 ngôi tháp Chăm, sau bị sụp đổ. Tên “Di Đà” là danh hiệu đức Phật giáo chủ cõi Cực lạc. Di Đà cũng có nghĩa là lý tánh, bản giác của chúng sinh. Tập hợp các ý nghĩa trên, tổ đình mang tên Thập Tháp Di Đà Tự.

Điện Phật

Tượng Bồ Tát Quan Âm

Chùa tổ đình Thập Tháp Di Đà gắn với tên tuổi vị khai sơn là Thiền sư Nguyên Thiều. Nhiều tư liệu ngày nay cho biết Ngài họ Tạ, tự là Hoán Bích, người huyện Trình Hương, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ngài sinh năm Mậu Tý (1648), năm 19 tuổi xuất gia ỏ chùa Báo Tự. Năm 1677, Ngài theo thuyền buôn của người Trung Quốc đến phủ Quy Ninh, nay thuộc tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 25 km, dựng thảo am thờ Phật A Di Đà.

Chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch và câu đối vào năm 1691.

Chùa kiến trúc theo kiểu chữ “Khẩu”; gồm chánh điện, đông đường, tây đường và nhà phương trượng.

Chùa đã trải qua 16 đời truyền thừa với nhiều vị thiền sư danh tiếng như: Thiền sư Liễu Triệt, Thiền sư Minh Lý, Thiền sư Phước Huệ… Thiền sư Phước Huệ đã được tôn làm Quốc sư. Ngài đã được mời vào giảng kinh trong hoàng cung nhà Nguyễn từ đời vua Thành Thái đến vua Bảo Đại, và giảng dạy Phật pháp ở Phật học đường Trúc Lâm và Tây Thiên (Huế) từ năm 1935.


















Tượng La Hán


Tượng Hộ Pháp

Chánh điện do Thiền sư Liễu Triệt cho trùng kiến vào năm 1749. Phật điện được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa thờ Tam Thế Phật, Ca Diếp, A Nan; hai bên vách đặt tượng Thập bát La hán và tượng Thập điện Minh Vương. Hầu hết các tượng thờ đều được tạc vào thời Thiền sư Minh Lý trụ trì (1871–1889).

Phía sau chánh điện có tấm bia ghi bài minh Sắc tứ Thập Tháp Di Đà Tự bi minh lập năm 1876 và một tấm bia ghi bài chí chùa Thập Tháp của Thị giảng Học sĩ Võ Khắc Triển lập năm 1928.

Chùa là ngôi tổ đình danh tiếng vào bậc nhất ở miền Trung. Chùa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.


Vườn tháp tổ

Nhà Tổ

Chùa Thập tháp Di đà (năm 1989)

Kiến trúc nóc chùa

Bia chùa

Đại hồng chung

Chân dung Cố Hòa thượng Thích Kế Châu

Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Ngôi chùa hơn 300 tuổi ở Bình Định

Thập Tháp Di Đà là ngôi chùa cổ nhất thuộc phái Lâm Tế, được trùng tu bốn lần nhưng vẫn giữ được tổng thể hài hòa, tôn nghiêm và cổ kính.


Chùa Thập Tháp Di Đà nằm phía Bắc thành cổ Đồ Bàn, kinh đô của nước Chiêm Thành xưa kia, gần Quốc lộ 1 và cách TP Quy Nhơn khoảng 30 km. Ngày xưa, trên gò đất cao có đến mười ngôi tháp Chàm cổ kính nằm án ngữ mặt Bắc Đồ Bàn cho nên mới gọi là gò Thập Tháp. Ngày nay, các tháp Chàm này bị chiến tranh tàn phá, hư hỏng nhiều nên chỉ còn lại vài tháp.

Chùa được xây dựng vào năm Quý Hợi (1683) niên hiệu Chánh Hòa nhà Lê và vị thiền sư có công xây dựng chùa chính là hòa thượng họ Tạ, húy là Nguyên Thiều, quê quán ở Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Ông tu về Thiền Tông thuộc phái Lâm Tế. Năm Tân Mùi (1691) nhà Lê, chùa được Vua Lê Hiển Tông ban cho biển ngạch đề "Thập Tháp Di Đà tự". Sau khi xây dựng chùa Thập Tháp Di Đà, Hòa thượng Nguyên Thiều mở trường truyền đạo.

Lối vào chùa Thập Tháp Di Đà xây bằng gạch Chàm, lợp ngói âm dương, kiến trúc theo hình chữ khẩu, có hai lớp tường bao bọc chung quanh. 

Chánh điện của chùa có những câu liễn, được khắc lên gỗ quý, sơn son thiếp vàng. 

Ở khu chính diện, kết cấu chủ yếu là gỗ quý được chạm trổ rất tinh xảo, công phu với những họa tiết hoa cuộn, hoa sen, rồng, phượng cách điệu. Đầu tám hàng trụ cột và đầu kèo được chạm, trang trí cổ tự. 

Khu vực chính của chùa gồm có khu chính điện, khu phương trượng, khu Tây đường và Đông đường, có dãy hành lang rộng lớn nối liền, bao bọc một sân rộng, có lát gạch vuông, bày đủ các thứ cây cảnh.

Ngoài những công trình chính, bên cạnh chùa còn có 24 bảo tháp lớn nhỏ mang hình thái kiến trúc nhiều thời khác nhau.

Cổng chính của một bảo tháp.

Ở mỗi bảo tháp, có những linh thú được tạo hình uy nghiêm, vừa sống động.

Một góc của khu vực bảo thảo ở phía đông bắc của chùa.

Đặc biệt, chùa còn lưu giữ “hòn đá chém”. Tương truyền, sau khi Nguyễn Ánh đánh chiếm thành Hoàng Đế, đã mở cuộc trả thù tàn khốc. Đao phủ nhà Nguyễn dùng một tảng đá đặt ngay cổng thành và kê đầu nạn nhân lên đó mà chém. Oan hồn của các nạn nhân ngày đêm đòi mạng.
Một ngày nọ, vị cao tăng trụ trì chùa Thập Tháp đến thành xin được lập đàn cầu siêu để giải nỗi oan khuất tày trời, lấy lại sự yên bình cho người dân trong vùng. Sau 3 ngày đêm kinh kệ, nhà sư cho người mang hòn đá về chùa Thập Tháp. Hòn đá được đặt cạnh cây thị cổ thụ 300 năm tuổi nằm phía nam tường thành của nhà chùa và được đặt tên là Hòn đá chém.

Từ trong chùa nhìn ra, lối vào tỏa bóng mát bởi cây bồ đề cổ thụ. Mùa hè, hồ sen phía trước chùa rực rỡ hoa và tỏa mùi hương thơm ngát.

Trong tất cả chùa chiền ở miền Trung được xây cất từ thời các chúa Nguyễn thì chùa Thập Tháp Di Đà được xem là chùa tổ. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia. Đây được coi là ngôi tổ đình danh tiếng vào bậc nhất ở miền Trung.

Công Tâm - Alex Phạm
Chuyện liêu trai trong ngôi chùa cổ

Chùa Thập Tháp (ở P.Nhơn Thành, TX.An Nhơn, Bình Định) có nhiều câu chuyện truyền miệng hoang đường, nghe đến không ít người phải rùng mình.

Cổng chùa Thập Tháp 

Quần thể di tích Phật giáo

Nhà nghiên cứu Lộc Xuyên Đặng Quý Địch khẳng định chùa Thập Tháp (tên đầy đủ là Thập Tháp Di Đà Tự) do thiền sư Nguyên Thiều (1648 - 1728) kiến tạo rồi làm lễ khai sơn vào năm 1683.

Thiền sư họ Tạ, tự Hoán Bích (người Trung Quốc), theo thuyền buôn đến phủ Quy Ninh (nay thuộc tỉnh Bình Định) năm 30 tuổi. Sau chùa Thập Tháp, thiền sư Nguyên Thiều ra đất Thuận Hóa lập chùa Hà Trung, chùa Quốc Ân, tháp Phổ Đồng rồi mất tại đó. Tên chùa Thập Tháp là do nguyên trước đây trên khu đồi xây dựng chùa có 10 ngôi tháp Chăm đã sụp đổ. Ban đầu, chùa Thập Tháp được xây dựng từ gạch của 10 ngôi tháp cổ này.


Chùa Thập Tháp là di tích kiến trúc nghệ thuật thế kỷ 19 đã được công nhận di tích cấp quốc gia từ năm 1990. Hiện chùa còn lưu giữ quần thể kiến trúc rất độc đáo, như ngôi chánh điện do thiền sư Thiệt Kiến Liễu Triệt cho trùng kiến vào năm 1749, nhà phương trượng do Quốc sư Phước Huệ xây vào năm 1924... Thời hòa thượng Minh Lý trụ trì chùa Thập Tháp (1871 - 1889) cũng đã tạo lập rất nhiều tượng Phật đến nay vẫn còn.

Trong khuôn viên chùa có khoảng hơn 20 tháp mộ của các đời trụ trì với kiến trúc rất độc đáo. Năm 1876, trong lúc tổ chức khai khẩn vùng đất hoang sau chùa, gặp rất nhiều hài cốt của lính Tây Sơn và nhà Nguyễn chết trong trận chiến ở thành Hoàng Đế, hòa thượng Minh Lý cho gom lại, xây một tháp để thờ cúng, ngày nay gọi là tháp Hội đồng.

Trụ trì dính nghi án oan tình

Hòn Đá Chém - Ảnh: Hoàng Trọng 

Đến nay, các hòa thượng và người dân trong vùng vẫn còn lưu truyền câu chuyện về ông Bạch Hổ đi tu tại chùa Thập Tháp. Sau khi sư phụ là hòa thượng Minh Giác mất, hòa thượng Thiệt Kiến Liễu Triệt đang làm trụ trì chùa Thiên Mụ (ở Huế) được gọi về làm trụ trì chùa Thập Tháp.

Không những là quần thể kiến trúc độc đáo, chùa Thập Tháp còn lưu giữ nhiều bộ kinh kệ rất quý, như: 2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh Di Đà sớ sao, Kim Cang trực sớ, Pháp Hoa khóa chú... và bộ Đại Tạng Kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường, bộ Đại Tạng Kinh Cao Ly và bộ Đại Tạng Kinh Đài Loan.
Một thời gian sau, trong đêm mưa gió, có hai mẹ con nằm trước cổng chùa Thập Tháp. Người mẹ bị câm nên không ai hỏi được gì. Hòa thượng Liễu Triệt cho xây một cái am gần chùa cho hai mẹ con nương náu. Từ đó, người dân trong vùng đồn đoán rằng trong thời gian làm trụ trì chùa Thiên Mụ, hòa thượng Liễu Triệt thường được chúa Nguyễn Phúc Khoát mời vào cung và đã có tơ tình với một phi tần. Kết quả mối tơ tình này chính là đứa con, còn phi tần kia là người mẹ bị câm. Hòa thượng Liễu Triệt không một lời giải thích.

Cũng trong thời gian này, đêm nào chùa Thập Tháp cũng có một con Bạch Hổ đến ngồi trước chánh điện nghe kinh khiến ai cũng sợ hãi. Hòa thượng Liễu Triệt bảo mọi người đừng sợ vì con cọp này không hại ai rồi ra ngoài nói với con cọp: “Hỡi Bạch Hổ! Vì nghiệp nặng phải làm thân súc sinh, hãy cố gắng nghe kinh tu hành có ngày sẽ được thoát kiếp”.

Thời gian sau, chúa Nguyễn triệu hòa thượng Liễu Triệt ra Huế để giảng dạy Phật pháp. Đêm trước khi đi, hòa thượng nằm mơ thấy một ông lão đến nói: “Xin thầy ở lại vài hôm để làm lễ cho con, tuổi thọ của con còn ngắn, con ở sau chùa”. Vài hôm sau, không thấy Bạch Hổ đến nghe kinh, hòa thượng biết cọp đã thoát kiếp nên sai đệ tử đi tìm và phát hiện được xác cọp sau vườn chùa. Hòa thượng cho mai táng con cọp tại chỗ, xây tháp và làm lễ đúng 49 ngày. Ban đầu, tháp Bạch Hổ được xây dựng bằng gạch Chăm nhưng đã bị sụp đổ, hiện đã được xây dựng lại, còn bộ xương thì bị kẻ gian lấy mất trong những năm kháng chiến chống Pháp.

Trước khi viên tịch, hòa thượng Liễu Triệt tập trung đệ tử lại dạy dỗ lần cuối và đưa ra lời bảo chứng: “Người đời nói oan cho ta dính án tình với cung phi. Ta một đời tu hành thanh tịnh, sau khi xả bỏ báo thân này, tháp của ta cũng sẽ luôn luôn tinh bạch”. Quả nhiên, cho đến ngày nay, tháp của hòa thượng Liễu Triệt vẫn còn trắng và mọi người quen gọi đó là Tháp Trắng.

Hòn đá chém oán hờn

Tương truyền rằng, sau khi chúa Nguyễn Ánh chiếm được thành Hoàng Đế, liền chiêu dụ những người trong hoàng tộc nhà Tây Sơn ra đầu thú với lời hứa hẹn sẽ không trả thù. Nhiều người ra trình diện thì Nguyễn Ánh nuốt lời, mang ra chém sạch. Tảng đá dùng để kê đầu tôn thất nhà Tây Sơn lên chém được đặt ngay cổng thành Hoàng Đế. Từ đó, hằng đêm trong tảng đá vẳng ra tiếng than khóc ai oán, đòi mạng thống thiết, người dân và quan quân nhà Nguyễn không ai dám đi ngang qua cổng thành.

Để cứu chúng sinh, một vị trụ trì chùa Thập Tháp xin được lập đàn cầu siêu để giải nỗi oan khuất. Sau 3 ngày đêm kinh kệ, nhà sư cho người mang hòn đá kia về chùa Thập Tháp. Hòn đá được đặt cạnh cây thị cổ thụ 300 năm tuổi nằm phía nam tường thành của nhà chùa và được đặt tên là Hòn Đá Chém. Nhưng nỗi oan khiên trong Hòn Đá Chém vẫn còn vất vưởng. Vào những đêm mưa gió, người ta thường thấy một phụ nữ mặc áo cụt trắng, quần đen bước ra từ Hòn Đá Chém. Khi chó trong chùa sủa là bóng người phụ nữ kia biến mất.

Đến thời hòa thượng Phước Huệ làm trụ trì, Hòn Đá Chém được chuyển vào để ngay bậc tam cấp trước khu Phương Trượng, sau lưng Chánh điện của chùa để thường xuyên được nghe kinh kệ, giải tỏa những oan khiên. Theo nhà sư Mật Hạnh, đệ tử của nhà sư Phước Huệ, cách đây vài chục năm, những đêm nhà chùa tổ chức cúng hành binh, hành khiến hằng năm vào lúc giao thừa trước Tết Nguyên đán, đến khi đổ 3 hồi trống chiêng là tự nhiên có một dải lụa trắng, tỏa ra ánh hào quang sáng rực xuất hiện bay lượn ngang chánh điện một lần rồi mất.

Ngày nay, Hòn Đá Chém vẫn còn đặt tại cửa khu phương trượng của chùa Thập Tháp (cao khoảng 40 cm, dài 1,5 m, rộng 1,3 m) nhưng chuyện ma quái không còn xuất hiện. Hằng năm, đến ngày giỗ hòa thượng Phước Huệ (18 tháng giêng âm lịch), hàng ngàn phật tử đến dự, nhìn Hòn Đá Chém, không ít người rơi nước mắt nhớ đến những anh hùng, hào kiệt thời Tây Sơn.


Hoàng Trọng
Thanh niên online - 23/10/2013
Loạt bài Những di tích kỳ bí - Kỳ 3

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét