Chùa tọa lạc trên một ngọn đồi thông ở đường Lê Ngô Cát, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên – Huế. ĐT: 054.884051, 054.826989. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Tam quan chùa
Mặt tiền chùa
Cảnh chùa
Chùa ban đầu là am An Dưỡng do Hòa thượng Nhất Định dựng vào năm 1843, lúc ngài đã 60 tuổi, từ chức Tăng cang chùa Giác Hoàng về đây tu hành và chăm sóc mẹ già 80 tuổi. Ngài họ Nguyễn, người thôn Trung Kiên, tổng Bích La, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị, sinh năm Giáp Thìn (1784). Bảy tuổi vào kinh xuất gia ở chùa Báo Quốc. Năm 1817, ngài trụ trì chùa Báo Quốc. Đến năm 1830, được ban giới đao độ điệp để làm trụ trì quán Linh Hựu, tăng cang chùa Giác Hoàng.
Sách Những ngôi chùa Huế (Hà Xuân Liêm, 2000) cho biết, ngài thế độ rất nhiều đệ tử, kể cả Tùng Thiện Quận Vương Miên Thẩm và Tuy Lý Quận Vương Miên Trinh (con thứ 10 và thứ 11 của vua Minh Mạng) là hai nhà thơ lớn đời Tự Đức. Nhưng nổi bậc nhất là các ngài : Hải Thuận – Lương Duyên, Hải Thiệu – Cương Kỷ và Hải Toàn – Linh Cơ. Ngài viên tịch vào năm 1847, tháp tên Diệu Quang, cao 7 tầng, xây sát vách chùa.
Năm 1848, ngài Hải Thiệu – Cương Kỷ đã được các vị thái giám Dương Oai, Đặng Tín, Nguyễn Khanh và cung giám đã tổ chức tái thiết, mở rộng ngôi chùa. Chùa được vua Tự Đức ban tấm biển Sắc tứ Từ Hiếu Tự và được Hiệp Biện Đại học sĩ linh Thượng thư Bộ Hình Nguyễn Đăng Giai làm bài văn khắc vào bia đá năm 1849.
Chùa được tiếp tục trùng tu, chỉnh trang vào các năm 1865, 1894, 1931, 1962, 1971...
Giảng đường
Bia chùa
Nhà bia
Cổng tam quan xây kiểu vòm cuốn hai tầng có mái, phía trên thờ tượng Hộ Pháp. Bên trong cổng là hồ bán nguyệt thả hoa sen, hoa súng được xây năm 1931. Chùa kiến trúc hình chữ “khẩu” với kiểu nhà trùng thiềm. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Gian giữa thờ tượng Tam Thế Phật.
Chùa có 8 tấm bia, như: An Dưỡng am Nhất Định Hòa thượng hành thự bi ký (1848), Sắc tứ Từ Hiếu tự bi ký (1849), Trùng tu Từ Hiếu tự bi ký (1885)…
Chùa là một ngôi Tổ đình ở Huế. Trước đây, chùa là một trong những nơi ấn hành kinh, luật của Phật giáo. Nhiều bản khắc in kinh còn lại như: Phật thuyết báo phụ mẫu trọng ân kinh, Pháp Bảo Đàn kinh…
Trụ trì chùa là Thượng toạ Thích Chí Mậu. Chùa Từ Hiếu là danh lam thắng cảnh xưa nay của đất Thần Kinh.
Vườn tháp
Khu tháp mộ
Lớp võ thuật
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Chùa Từ Hiếu - Cổ tự độc đáo bậc nhất xứ Huế
Chùa Từ Hiếu (đường Lê Ngô Cát, TP. Huế) được nhiều du khách gần xa biết đến vì lịch sử lâu đời, nguồn gốc tên gọi, những ngôi mộ dành cho thái giám... Những ngày gần đây, đông đảo khách thập phương tìm hiểu, tìm về vì hiện nay, chùa là nơi tịnh dưỡng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh từ đây cho đến cuối đời.
Tại sao chùa mang tên Từ Hiếu?
Chuyện bắt đầu từ cuộc đời một nhà sư có pháp danh là Nhất Định. Năm 1843, sau khi từ chức Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự và trao quyền trụ trì chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, nhà sư Nhất Ðịnh đã dựng lên Thảo Am An Dưỡng để tịnh tu và dưỡng mẹ già.
Một ngày nọ, mẹ của nhà sư Nhất Định bị bệnh rất nặng. Nhà sư lo thuốc thang, hết lòng chăm sóc nhưng bệnh tình của mẹ vẫn không khỏi. Có người khuyên nhà sư nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, bởi mẹ nhà sư đã quá suy nhược cơ thể.
Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, sư Nhất Định vẫn chống gậy băng rừng lội suối, xuống chợ cách Thảo Am An Dưỡng hơn 5km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ tẩm bổ.
Câu chuyện của sư Nhất Định đến tai Tự Đức vốn là một vị vua rất hiếu thảo với mẹ. Vua Tự Đức rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên đã ban tên Từ Hiếu tự cho Thảo Am An Dưỡng và ban tiền để tu sửa lại. “Thảo Am An Dưỡng” được mang tên chùa Từ Hiếu từ đó.
Nghĩa trang thái giám
Ngoài điển tích kỳ lạ trên, chùa Từ Hiếu còn nổi tiếng với một nghĩa trang “độc nhất vô nhị”. Nghĩa trang này là nơi chôn cất các quan thái giám của triều Nguyễn năm xưa. Cũng chính vì lẽ đó nên ngoài tên gọi Từ Hiếu, chùa còn có các tên gọi khác như “chùa Thái giám” hay “chùa Hoạn quan”.
Ngày nay, cách chính điện khoảng 50m về phía bên trái, khu mộ địa với hơn 20 ngôi mộ chính là khu nghĩa trang thái giám “có một không hai” này.
Ngoài ra, đây là nơi mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xuất gia tu học năm ngài 16 tuổi. Đến nay, sau khi trở về Việt Nam, ngày 28.10, Thiền sư đã trở về với Tổ đình Từ Hiếu và mong muốn được tịnh dưỡng ở đây cho đến lúc viên tịch.
Chánh điện chùa Từ HIếu. Ảnh: PĐ.
Cổng tam quan và hồ bán nguyêt của chùa Từ Hiếu. Ảnh: PĐ.
Chuyện bắt đầu từ cuộc đời một nhà sư có pháp danh là Nhất Định. Năm 1843, sau khi từ chức Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự và trao quyền trụ trì chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, nhà sư Nhất Ðịnh đã dựng lên Thảo Am An Dưỡng để tịnh tu và dưỡng mẹ già.
Các tăng ni, phật tử lễ Phật tại chánh điện. Ảnh: PĐ.
Một ngày nọ, mẹ của nhà sư Nhất Định bị bệnh rất nặng. Nhà sư lo thuốc thang, hết lòng chăm sóc nhưng bệnh tình của mẹ vẫn không khỏi. Có người khuyên nhà sư nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, bởi mẹ nhà sư đã quá suy nhược cơ thể.
Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, sư Nhất Định vẫn chống gậy băng rừng lội suối, xuống chợ cách Thảo Am An Dưỡng hơn 5km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ tẩm bổ.
Nhiều du khách đến chùa để tham quan, lễ Phật. Ảnh: PĐ.
Câu chuyện của sư Nhất Định đến tai Tự Đức vốn là một vị vua rất hiếu thảo với mẹ. Vua Tự Đức rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên đã ban tên Từ Hiếu tự cho Thảo Am An Dưỡng và ban tiền để tu sửa lại. “Thảo Am An Dưỡng” được mang tên chùa Từ Hiếu từ đó.
Nghĩa trang thái giám
Một số ngôi mộ trong khuôn viên chùa Từ Hiếu. Ảnh: PĐ.
Ngoài điển tích kỳ lạ trên, chùa Từ Hiếu còn nổi tiếng với một nghĩa trang “độc nhất vô nhị”. Nghĩa trang này là nơi chôn cất các quan thái giám của triều Nguyễn năm xưa. Cũng chính vì lẽ đó nên ngoài tên gọi Từ Hiếu, chùa còn có các tên gọi khác như “chùa Thái giám” hay “chùa Hoạn quan”.
Ngày nay, cách chính điện khoảng 50m về phía bên trái, khu mộ địa với hơn 20 ngôi mộ chính là khu nghĩa trang thái giám “có một không hai” này.
Nhiều người ngồi dưới tháp chuông của chùa để Thiền, tìm sự an yên trong cõi lòng. Ảnh: PĐ.
Ngoài ra, đây là nơi mà Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã xuất gia tu học năm ngài 16 tuổi. Đến nay, sau khi trở về Việt Nam, ngày 28.10, Thiền sư đã trở về với Tổ đình Từ Hiếu và mong muốn được tịnh dưỡng ở đây cho đến lúc viên tịch.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh dạo chùa cùng các tăng ni, Phật tử. Ảnh: PĐ.
Hàng ngày, có rất đông các tăng ni, Phật tử đứng trước lối ra vào nơi Thiền Sư Thích Nhất Hạnh tịnh dưỡng để mong được gặp ngài. Ảnh: PĐ.
PHÚC ĐẠT
Chùa Từ Hiếu - ngôi cổ tự độc đáo xứ Huế
Ẩn mình trong một rừng thông, chùa Từ Hiếu (phường Thủy Xuân) là ngôi cổ tự độc đáo của TP. Huế. Chùa còn là biểu tượng của lòng hiếu thảo.
Lối vào chùa
Cổng Tam Quan chùa Từ Hiếu
Chùa Từ Hiếu ban đầu chỉ là một Thảo Am với tên gọi là am An Dưỡng do Tổ sư Nhất Định lập nên vào năm 1843. Ngài vừa tu hành vừa lo chăm sóc mẹ già. Cảm động về sự hiếu thảo, sau khi ngài viên tịch, Vua Tự Đức đặt cho chùa tên là “Từ Hiếu tự”. Hiểu theo nghĩa của Đạo Phật là đạo hiếu giữa bố mẹ và con cái.
Nơi chôn cất thiền sư Nhất Định
Năm 1848, Hoà thượng Cương Kỷ bắt đầu xây dựng chùa quy mô hơn với kinh phí được vua Tự Đức cấp và từ các vị quan thái giám triều Nguyễn và các Phật tử cúng dường. Từ đó, chùa Từ Hiếu trở thành một ngôi chùa lớn
Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng
Chính điện chùa Từ Hiếu, ngôi chùa nhuốm màu hoang sơ huyền bí giữa đạo và đời
Nét giản dị của chùa thể hiện qua lối kiến trúc chữ “Khẩu” với ba gian hai chái truyền thống tạo thành tổng thể khép kín
Gian chính điện là nơi thờ Phật còn phía sau là nơi thờ Tổ
Cây khế ngọt hơn trăm tuổi
Khu vực các ngôi mộ của những thái giám triều Nguyễn có đóng góp mở mang xây dựng chùa
Chùa là nơi thiền sư Thích Nhất Hạnh khởi tâm đi tu và sau nhiều năm tu tập và giảng đạo ở nước ngoài, hiện thiền sư đã trở về và an dưỡng tại nơi đây
Thiền sư Thích Nhất Hạnh (ngồi) trong ngày trở về. Ảnh: Chùa Từ Hiếu
Với vẻ đẹp hài hòa giữa kiến trúc và không gian thơ mộng, ngày nay ngôi cổ tự này không chỉ là chốn hành hương của các Phật tử mà còn là điểm đến thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước
Mỹ Trà/VOV5
Vẻ đẹp trầm lặng nơi tổ đình Từ Hiếu
Gió đại ngàn vẫn hun hút. Bóng chiều dần tàn, vẻ trầm mặc nơi chùa Từ Hiếu thêm sâu lắng. Tiếng đàn cá tớp nước nơi hồ bán nguyệt trước cổng Tam Quan, tiếng nhành cây xào xạc nghe khá đanh, nặng…
Bước qua cổng Tam Quan, ngay tầm mắt phía bên trái người lữ khách là khoảng không gian rộng, rõ là khu nghĩa trang cũ, gờ tường bao quanh đã rục. Rêu xanh, rêu vàng chen nhau khắp thành tường bao, trên mộ… Khu cổ trang nằm đó không biết đã bao năm, chỉ nghe im ắng bao trùm, tiếng côn trùng rinh rích kẽ tường, thảm lá…
Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền có lần mẹ già bị bệnh rất nặng, hàng ngày ông lo thuốc thang nhưng bà vẫn không khỏi. Có người ái ngại khuyên ông nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, có làm được điều đó mới mong bà chóng hồi sức. Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, thiền sư vẫn chống gậy băng rừng lội bộ xuống chợ cách đó hơn 5 km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ già ăn. Câu chuyện vang đến tai Tự Đức vốn là vị vua rất hiếu thảo với mẹ, vua rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Trong tấm bia ghi lại quá trình xây dựng chùa giải thích:
Từ: là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại.
Hiếu: là đầu hạnh của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời.
Cùng với sự đóng góp của Phật tử, vua Tự Đức ban cấp nhiều kinh phí, chùa còn được các vị quan trong cung triều Nguyễn mà nhất là các vị thái giám cúng dường tiền bạc để lo việc thờ tự sau này, năm 1848 Hoà thượng Cương Kỷ bắt đầu xây dựng chùa quy mô hơn và rồi Từ Hiếu trở thành một ngôi chùa lớn.
Năm 1894 Hoà thượng Cương Kỷ tiếp tục trùng tu và kiến thiết toàn cảnh chùa với sự giúp đỡ của vua Thành Thái, giám quan và các Phật tử.
Năm 1962 Hoà thượng Chơn Thiệt tiếp tục trùng tu và chỉnh trang toàn cảnh chùa.
Năm 1971, chùa được Thượng toạ Chí Niệm cho trùng tu cửa tam quan, hồ bán nguyệt và những nhà cửa bị hư hỏng.
Kiến trúc
Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi của phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá cảnh. Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu (口), chính điện ba căn, hai chái, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám..., bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Xung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây là nơi điểm vui chơi dã ngoại của thanh niên Huế vào những ngày nghỉ, ngày lễ. Chùa Từ Hiếu là một trong những ngôi chùa cổ đón khách du lịch trong và ngoài nước đông nhất cố đô Huế.
Bước qua cổng Tam Quan, ngay tầm mắt phía bên trái người lữ khách là khoảng không gian rộng, rõ là khu nghĩa trang cũ, gờ tường bao quanh đã rục. Rêu xanh, rêu vàng chen nhau khắp thành tường bao, trên mộ… Khu cổ trang nằm đó không biết đã bao năm, chỉ nghe im ắng bao trùm, tiếng côn trùng rinh rích kẽ tường, thảm lá…
Một phần khu nghĩa trang cổ nơi chùa Từ Hiếu
Ngôi cổ tự, bao quanh là rừng thông, rộng đến 7-8 héc ta. Kiến trúc nền cơ bản là đất, lối đi chính hay khoảng không gian từ cổng Tam Quan vào dát gạch nung đã cũ. Sân chính khuôn viên quanh gian Chính điện, gian Nhà tổ dát gạch nung vân đá màu xi măng cũng đã phong hóa nhiều.
Cổng Tam Quan
Hồ bán nguyệt khá rộng ngay trung tâm cổng Tam Quan nuôi đàn cá trê đến cả trăm con. Có con to hơn bắp chân người lớn. Mặt hồ xanh thẳm, soi bóng tà dương. Sắc xanh nơi hồ bán nguyệt lúc dịu mát, lúc lành lạnh khi cơn gió ùa qua…
Hồ bán nguyệt trước cổng Tam Quan
Qua hồ nước là lối dẫn về khuôn viên chính nhà chùa. Hàng cây xanh mướt. Thảm cỏ hiu vàng trong nắng chiều muộn. Lối đi nhỏ vừa, nhưng dẫn đến không gian sâu, rộng hút tầm mắt. Ánh chiều chạng vạng vẫn đủ để soi tỏ từng hạng mục công trình. Hai bên tả, hữu trước khoảng sân rộng là tòa tháp nơi đặt bia ký lịch sử chùa Từ Hiếu.
Lối đi dẫn về khuôn viên chính nhà chùa
Giữa sân là gian Chính điện, gác mái, cột xà, bờ tường dường như đang oằn mình theo từng hao mòn lịch sử. Ngay bờ tường đầu hồi bên phải gian Chính điện là bia ký lược sử nhà chùa, được đặt từ năm 1989. Dường như, quý Thầy, tăng chúng nơi đây muốn giữ nguyên trạng những công trình các đời tổ đã dày công cất dựng, duy trì và mở rộng thêm một số gian dẫu có phần rạn nứt.
Trước thềm gian Chính điện
Phía bên phải gian Chính điện là lối dẫn về Nhà tổ, thiền đường. Tiếp đó, cũng theo tầm mắt bên phải nhìn từ Nhà tổ là khu vườn tháp, theo người dân địa phương nơi đây, đó cũng là lăng mộ xưa, nơi an nghỉ của những vị Thái giám triều Nguyễn, của những người góp công xây dựng chùa Từ Hiếu ngày nay.
Nhiều hạng mục công trình đã xuống cấp nghiêm trọng
Không gian Từ Hiếu rộng khắp, chúng tôi khó mà đi hết khi trời chiều đã muộn. Tranh thủ thăm quan những khuôn viên chính, chúng tôi đồng cảm nhận ngôi cổ tự nơi Thiền môn xứ Huế dù đã hơn 170 năm tuổi, gian Chính điện đang bị xuống cấp nặng nhưng vẫn mang vẻ đẹp khó tả: Một khu rừng nguyên sinh thu nhỏ luôn tràn đầy sức sống, một quần thể kiến trúc chùa Việt truyền thống uy nghiêm, thanh tịnh.
Những phong hóa, hao mòn thời gian...
Có lúc, giữa vẻ trầm tịnh, người lữ khách như hòa cùng nghiêm thường khúc thiền ca ngân vọng xuyên không gian, thời gian giữa đại ngàn nơi cửa thiền Từ Hiếu: Ngôi cổ tự linh thiêng, huyền bí…
* Lược sử chùa Từ Hiếu, thôn Dương Xuân Thượng III, phường Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Lịch sử
Năm 1843, sau khi từ chức "Tăng Cang Giác Hoàng Quốc Tự" và trao quyền điều hành chùa Bảo Quốc cho pháp đệ là Nhất Niệm, Hoà thượng Nhất Ðịnh đã đến đây khai sơn, dựng "Thảo Am An Dưỡng" để tịnh tu và nuôi dưỡng mẹ già.
Hoà thượng Nhất Ðịnh nổi tiếng là người con có hiếu, tương truyền có lần mẹ già bị bệnh rất nặng, hàng ngày ông lo thuốc thang nhưng bà vẫn không khỏi. Có người ái ngại khuyên ông nên mua thêm thịt cá để tẩm bổ cho mẹ, có làm được điều đó mới mong bà chóng hồi sức. Nghe xong, mặc thiên hạ đàm tiếu chê bai, thiền sư vẫn chống gậy băng rừng lội bộ xuống chợ cách đó hơn 5 km để mua cá mang về nấu cháo cho mẹ già ăn. Câu chuyện vang đến tai Tự Đức vốn là vị vua rất hiếu thảo với mẹ, vua rất cảm phục trước tấm lòng của sư Nhất Định nên ban cho "Sắc tứ Từ Hiếu tự". Chùa được mang tên Từ Hiếu từ đó. Trong tấm bia ghi lại quá trình xây dựng chùa giải thích:
Từ: là đức lớn của Phật, nếu không từ thì lấy gì tiếp độ tứ sanh cứu giúp vạn loại.
Hiếu: là đầu hạnh của Phật, nếu không hiếu thì lấy gì để đạt thông cõi nhiệm bao phủ đất trời.
Cùng với sự đóng góp của Phật tử, vua Tự Đức ban cấp nhiều kinh phí, chùa còn được các vị quan trong cung triều Nguyễn mà nhất là các vị thái giám cúng dường tiền bạc để lo việc thờ tự sau này, năm 1848 Hoà thượng Cương Kỷ bắt đầu xây dựng chùa quy mô hơn và rồi Từ Hiếu trở thành một ngôi chùa lớn.
Năm 1894 Hoà thượng Cương Kỷ tiếp tục trùng tu và kiến thiết toàn cảnh chùa với sự giúp đỡ của vua Thành Thái, giám quan và các Phật tử.
Năm 1931 Hoà thượng Huệ Minh tiếp tục tùng tu và xây hồ bán nguyệt.
Năm 1962 Hoà thượng Chơn Thiệt tiếp tục trùng tu và chỉnh trang toàn cảnh chùa.
Năm 1971, chùa được Thượng toạ Chí Niệm cho trùng tu cửa tam quan, hồ bán nguyệt và những nhà cửa bị hư hỏng.
Kiến trúc
Chùa Từ Hiếu nằm khuất trong một rừng thông trên một vùng đồi của phường Thủy Xuân. Khuôn viên chùa rộng chừng 8 mẫu, phía trước có khe nước uốn quanh, phong cảnh thơ mộng.
Trước cổng chùa có ngôi tháp cao 3 tầng được xây dựng vào năm 1896 dùng làm nơi tàng trữ kinh tượng theo sắc chỉ của nhà vua. Cổng chùa được xây theo kiểu vòm cuốn, hai tầng có mái che và ngay trước con đường lát gạch để vào chánh điện là một hồ bán nguyệt trồng sen và nuôi cá cảnh. Cấu trúc chùa theo kiểu ba căn hai chái, trước là chính điện thờ Phật, sau là Quảng Hiếu Đường. Ở khu nhà hậu có án thờ Tả quân đô thống Lê Văn Duyệt cùng con ngựa gỗ và thanh đại đao của ông.
Hai bên sân chùa có hai lầu bia để ghi lịch sử xây dựng chùa. Chùa được xây theo kiểu chữ khẩu (口), chính điện ba căn, hai chái, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Tổ. Nhà hậu là Quảng Hiếu đường, ở giữa thờ đức thánh quan, bên trái thờ hương linh phật tử tại gia, bên phải thờ các vị Thái giám..., bên tả sân hậu là Tả Lạc Thiên (nhà tăng) và bên hữu là Hữu Ái Nhật (nhà khách).
Xung quanh ngôi chùa Từ Hiếu còn có khá nhiều lăng mộ các vị phi tần của các chúa Nguyễn. Do địa thế đẹp, yên tĩnh lại không xa thành phố Huế nên nơi đây là nơi điểm vui chơi dã ngoại của thanh niên Huế vào những ngày nghỉ, ngày lễ. Chùa Từ Hiếu là một trong những ngôi chùa cổ đón khách du lịch trong và ngoài nước đông nhất cố đô Huế.
Thường Nguyên - Diệu Hương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét