- Địa điểm: ấp I, xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch
- Năm khai sơn: thế kỷ XIX
- Người trụ trì: Sư cô Thích nữ Tắc Tâm
- Năm trùng tu: 1904, 1909, 1961, 1983, 1993
- Hệ phái gốc: Lâm Tế Chánh Tông (nay là Thiên Thai Giáo Quán Tông)
- Điện thoại: 061. 515275
Theo lời các bộ lão trong làng kể lại, chùa Khánh Lâm thành tạo cách đây đã hơn 200 năm do một Sư ông gốc người Huế từng làm chức Thượng Thư ở triều đình về ẩn tu. Thuở ấy, chùa chỉ là một am tranh nhỏ, xung quanh là rừng rậm mịt mù. Chùa được trùng tu nhiều lần, Sư ông cũng thu nhận đệ tử qua nhiều đời, hiện giờ còn lại các long vị thờ ở chùa từ đời Lâm Tế thứ 37: Thượng Tịnh Hạ Nhãn, huý Tiên Sắc; đời thứ 38: Thượng Chánh Hạ Trung, huý Minh Cẩn; Thượng Bảo Hạ Châu, huý Minh Tỉnh; đời thứ 39: Thượng Quý Hạ Trịnh, huý Như Chân; Thượng Chơn Hạ Hạnh, huý Như Khải; Thượng Quý Hạ Biên, huý Kiểu Tiên; đời thứ 40: Thượng Tâm Hạ Thường, huý Kiểu Thế; đời thứ 40 (Lâm Tế Gia Phổ) Thượng Trí Hạ Ngộ, huý Hồng Từ; đời thứ 41: Thượng Trí Hạ Lâm, huý Nhựt Tấn, Thượng Trí Hạ Tiên, huý Nhựt Đường; đời thứ 42: Thượng Quảng Hạ Nghiêm, huý Lệ Trang. Vào đời Lâm Tế thứ 39, Sư ông Thượng Chơn Hạ Hạnh, huý Như Khải vận động Phật tử ở khắp nơi mua được bộ cột đá xanh và trùng tu lại chùa. Đây là lần trùng tu có qui mô nhất, di tích hiện tồn đến ngày nay. Khởi công xây dựng vào năm 1904 mãi đến năm 1909 (Kỷ Dậu) mới khánh lạc. Thời gian qua đi, những biến đổi khắc nghiệt của thời tiết và chiến tranh chùa bị hư hại đi nhiều nhưng bộ cột đá xanh và bộ tượng gỗ của chùa vẫn tồn tại đến ngày nay. Năm 1961, Sư Lệ Trang tự Quảng Nghiêm trụ trì chùa có sửa lại chánh điện, thay ngói và những vì kèo bị hư. Đến năm 1983, Sư cô Thích nữ Tắc Tâm trụ trì cho đổi lại mái ngói một lần nữa.
Chùa Khánh Lâm nổi bật với lối kiến trúc mang đậm phong cách truyền thống kiểu nhà ba gian hai chái. Hệ thống cột, móng nền làm bằng đá xanh, khung vì kèo bằng gỗ, mái lợp ngói vảy cá. Nội thất chánh điện trang nghiêm với những bức hoành phi, liễn đối, bao lam bằng gỗ chạm hình rồng, mây, dây hoa lá cách điệu, tất cả được sơn son thếp vàng. Phật điện trang nghiêm với hệ thống tượng bằng gỗ: bộ tượng A Di Đà (gồm 3 tượng) bằng gỗ mít, gỗ mun; tượng Địa Tạng, tượng Quan Âm, tượng Nam Tào, tượng Bắc Đẩu, tượng Ngọc Hoàng, tượng Thế Chí, tượng Văn Thù, tượng Phổ Hiền, tượng Hộ Pháp; bộ tượng Thập điện Diêm Vương gồm 10 tượng.
Có thể nói tập hợp tượng gỗ ở chùa Khánh Lâm khá phong phú cả về số lượng lẫn giá trị nghệ thuật, với phong cách tạo hình mang đậm tính dân gian, truyền thống.
Chùa Khánh Lâm thành tạo bằng công sức của những người một lòng với Phật pháp. Với bề dày lịch sử của mình, chùa Khánh Lâm đã một lòng đi cùng quê hương xây dựng một cuộc sống tốt đạo - đẹp đời.
Chùa Khánh Lâm là một trong số ít những ngôi chùa ở Đồng Nai còn bảo lưu gần như nguyên vẹn lối kiến trúc cổ và sưu tập tượng gỗ có giá trị nghệ thuật cao, được tạo tác bằng đôi bàn tay tài hoa của những nghệ nhân dân gian.
Ngoài giá trị là cơ sở tín ngưỡng gắn bó với đời sống tinh thần của cộng đồng cư dân ở Đồng Nai, chùa Khánh Lâm còn là một minh chứng lịch sử phản ánh chặng đường khẩn hoang kỳ vĩ của người dân Phú Hội anh hùng. Hiện nay chùa có ba Ni:
1. Lưu Thị Ba, pháp hiệu: Thích nữ Tắc Tâm, Tỳ kheo Ni trụ trì.
2. Phan Quang Thị Ánh Mai, pháp hiệu: Thích nữ An Lộc, Tỳ kheo Ni chúng.
3. Phạm Thị Phương Thùy, pháp hiệu: Thích nữ An Trí, Tỳ kheo Ni chúng.
Thuộc dòng Thiên Thai Giáo Quán Tông.
Như hầu hết những ngôi chùa cổ khác ở Đồng Nai, đến nay chưa có tư liệu văn bản chính thức nào về năm hình thành, nhưng theo các lạc khoản còn lưu giữ trong chùa thì Khánh Lâm cổ tự được xây dựng vào năm 1787 và có lẽ đây là ngôi chùa ra đời sớm nhất ở vùng Nhơn Trạch. Ngoài giá trị là cơ sở tôn giáo gắn bó lâu đời với đời sống tinh thần của cư dân địa phương, gắn liền với lịch sử khẩn hoang của vùng đất, chùa Khánh Lâm còn lưu giữ những giá trị mỹ thuật độc đáo.
* Đất xưa làng cổ
Xã Phú Thạnh nơi chùa Khánh Lâm tọa lạc là một trong những ngôi làng cổ của vùng Nhơn Trạch, với tên gọi xưa là thôn Phước Thạnh. Cũng chưa có tư liệu về năm hình thành của thôn. Chỉ biết, Gia Định thành thông chí của tác giả Trịnh Hoài Đức ra đời vào năm 1820 đã có nhắc đến địa danh này. Theo đó, thôn Phước Thạnh là 1 trong 29 thôn thuộc tổng Thành Tuy, huyện Long Thành. Điều này cho thấy thôn Phước Thạnh chắc chắn phải hình thành từ trước đó.
Một số người lớn tuổi cho rằng tên gọi Phú Thạnh hiện nay là do sáp nhập 2 làng Phước Thạnh và An Phú, mà chứng tích là đình thần của làng An Phú (đình Trung Cựu An Phú) hiện nay nằm ở ấp 1, xã Phú Thạnh. Làng xưa có diện tích khá lớn, theo thống kê năm 1878, Phước Thạnh lúc ấy có 4 ấp, gồm: Rạch Giồng, Bến Cộ, Cù Lao Ông Cồn (nay thuộc xã Đại Phước) và Bàu Sen.
Lịch sử hình thành làng cổ Phước Thạnh gắn liền với các cuộc di dân lớn của lưu dân chủ yếu là vùng Ngũ Quảng thời chúa Nguyễn, như hầu hết các làng cổ khác của xứ Đồng Nai. Khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập hệ thống hành chính tại Đồng Nai vào năm 1698, cùng với những chính sách khuyến khích khẩn hoang mở đất, đã mở đầu cho các cuộc di dân có tổ chức vào miền đất mới mà Đồng Nai chính là điểm đầu của hành trình mở đất, khẩn hoang vùng Nam bộ. Xứ Nhơn Trạch do những đặc điểm thuận lợi về giao thông, đất đai thổ nhưỡng, khí hậu, sản vật… nên là một trong những địa điểm được lưu dân tìm đến và chọn làm nơi định cư.
Chùa Khánh Lâm hiện còn 11 long vị thờ các vị trụ trì, từ vị khai sơn là sư ông Tịnh Nhãn, dòng Lâm Tế đời 37 cho đến sư ông Quảng Nghiêm, thuộc dòng Lâm Tế đời 42. Cùng với lạc khoản thời điểm chế tác bộ cột đá, đây cũng là một trong những căn cứ để xác định thời điểm hình thành chùa. |
* Độc đáo chùa cổ
Hơn trăm năm sau, vào năm 1904, sư ông Chơn Hạnh, húy Như Khải, thuộc dòng Lâm Tế thứ 39, đã vận động phật tử khắp nơi xây dựng chùa. Đây là đợt xây dựng lớn nhất, tạo ra dấu ấn độc đáo cho ngôi cổ tự và còn lưu giữ được đến ngày nay.
Kiến trúc chùa Khánh Lâm thiết kế theo lối truyền thống ba gian hai chái. Điểm nổi bật là hệ thống cột, móng, nền đều làm bằng đá xanh Biên Hòa, khung vì kèo bằng gỗ được chạm trổ, mái lợp ngói vảy cá. Nội thất chánh điện trang trí nhiều hoành phi, liễn đối, bao lam bằng gỗ chạm rồng, mây, dây hoa lá cách điệu. Tất cả đều được sơn son thếp vàng, tạo nét uy nghi lộng lẫy.
Đặc biệt, một số phật tử đã phụng cúng cho chùa 22 cây cột đá, trong đó có 8 cột cao đến 4,5m, những cây còn lại thấp nhất cũng 3m. Cột được chế tác từ đá xanh Biên Hòa, một số thân cột được chạm khắc hoa văn tinh xảo. Số cột này được sư ông Chơn Hạnh cho người chế tác ở làng đá Bửu Long (nay thuộc P.Bửu Long, TP.Biên Hòa), sau đó dùng xe bò kéo về chùa. Cột rất nặng, lúc bấy giờ phương tiện vận chuyển còn thô sơ, chỉ có xe bò, muốn chở cột phải dùng 2 chiếc xe bò đâu lại mới kéo nổi một cây cột đá, một chuyến đi chỉ có thể vận chuyển được 4 cây cột. Tính ra, mất 6 đợt đi về mới vận chuyển hết được số cột đá nói trên. Giá mỗi cây cột ước khoảng trên 1 ngàn giạ lúa. Vào đầu thế kỷ 20, giá lúa ở miền Nam xấp xỉ khoảng hơn 3 đồng/giạ, bộ 22 cột đá nói trên trị giá khoảng gần 70 ngàn đồng - một số tiền rất lớn so với giá trị tiêu dùng thời điểm ấy. So với bộ cột đá cũng chế tác từ đá Biên Hòa tại Thất phủ cổ miếu (còn gọi là chùa Ông, tọa lạc tại TP.Biên Hòa, xây dựng vào năm 1684), bộ cột đá ở chùa Khánh Lâm hơn hẳn về độ cao và số lượng.
Đợt trùng tu này kéo dài từ năm 1904 đến 1909 mới hoàn thành, đã thay đổi hoàn toàn diện mạo, cấu trúc chùa, từ một gian mái lá đơn sơ đến kiến trúc gỗ và tường vôi như hiện nay.
Ngoài bộ cột đá nói trên, các phật tử còn đóng góp phụng cúng bộ tượng Phật tạc bằng gỗ mít, gỗ mun rất công phu, nghệ thuật. Bộ tượng gồm hơn 50 tượng, gồm: bộ tượng A Di Đà (3 tượng), tượng Địa Tạng Vương, Quan Âm Bồ tát, tượng Nam Tào - Bắc Đẩu, tượng Ngọc hoàng, tượng Bồ tát Đại Thế Chí, tượng Bồ tát Văn Thù, tượng Bồ tát Phổ Hiền, tượng Bồ tát Chuẩn Đề, tượng Hộ pháp, bộ tượng Thập bát La Hán (18 tượng), bộ tượng Thập điện Diêm Vương (10 tượng)… Có thể nói, hệ thống tượng ở chùa Khánh Lâm không chỉ phong phú về số lượng mà còn có giá trị nghệ thuật cao, phong cách tạo hình mang đậm nét truyền thống, tính dân gian.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, các vị trụ trì chùa Khánh Lâm luôn ủng hộ phong trào cách mạng của nhân dân. Năm 1968, quân đội Mỹ bắn pháo trúng ngay sân chùa Khánh Lâm, may mắn pháo lép không nổ. Cũng trong năm này, Hòa thượng Thích Trí Ngộ, trụ trì chùa Long Hương (xã Long Tân) nuôi giấu cán bộ, chiến sĩ cách mạng tham gia trận đánh Tết Mậu Thân, bị quân Mỹ phát hiện và đốt cháy chùa, nên hòa thượng tạm lánh về chùa Khánh Lâm. Tại đây, hòa thượng vẫn tiếp tục tiếp tế, ủng hộ cho cách mạng. Hòa thượng Thích Trí Ngộ có một người con trai tham gia kháng chiến chống Mỹ, hy sinh và được công nhận liệt sĩ.
Thời điểm mới xây dựng, đời sống người dân Phú Thạnh còn khó khăn trong quá trình khai khẩn, mở đất nên chùa chỉ là một chái am nhỏ lợp lá, nền đất. Nhưng đến năm 1904, sư ông Chơn Hạnh đã có thể huy động sức người, sức của để xây dựng ngôi chùa bề thế như trên, cho thấy đời sống người dân Nhơn Trạch thời điểm đó đã được nâng cao, một bộ phận có kinh tế khá giả. Cho nên, nói rằng cơ sở tín ngưỡng tôn giáo phản ánh đời sống kinh tế, văn hóa của người dân là vậy.
Những năm sau, vào các năm 1961, 1983, 1993, chùa cũng trải qua những đợt trùng tu nhỏ khác, như thay ngói, sửa vì kèo. Diện tích khuôn viên chùa hiện nay là 4.742 m², trong đó diện tích xây dựng là 1.590 m². Chùa Khánh Lâm trước đây sở hữu 1 ha rừng, 3 ha ruộng để sản xuất từ đó chăm lo việc phụng cúng, nhưng do một số biến động về lịch sử, thời gian, hiện nay những tài sản trên đã không còn...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét