2 tháng 8, 2022

Chùa Bổ Đà

Chùa Bổ Đà có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất  

Chùa Bổ Đà là Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật quốc gia đặc biệt. Chùa là quần thể lớn, tọa lạc tại thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang - danh lam cổ tự nổi tiếng của xứ Kinh Bắc xưa. Chùa Bổ Đà có điển tích huyền bí, cũng như có vườn tháp lớn nhất Việt Nam, lưu giữ bộ mộc bản kinh Phật cổ nhất.


Một góc chùa Bổ Đà.

Nơi tu luyện và đào tạo tăng đồ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Theo tư liệu từ Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Chùa Bổ Đà (Tứ Ân tự) còn có tên là chùa Quan Âm, thường được người dân trong vùng gọi tắt là chùa Bổ. Chùa nằm ở phía Bắc chân núi Phượng Hoàng thuộc thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Chùa được xây dựng từ thế kỷ XI và được trùng tu lại vào thời vua Lê Trung Hưng.

Chùa có diện tích khoảng 51.784 m² được phân ra làm ba khu rõ rệt. Khu vườn 31.000 m², khu nội tự chùa 13.000 m² và khu vườn tháp rộng 7.784 m². Chùa có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, đó là lối kiến trúc "nội thông ngoại bế" tạo vẻ u tịch, thanh vắng, linh thiêng. Trải qua mấy trăm năm, chùa Bổ Đà là một trong những trung tâm Phật giáo lớn, là nơi tu luyện và đào tạo tăng đồ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.

Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một dòng thiền Việt Nam hình thành từ thời nhà Trần. Người sáng lập ra dòng này là Phật hoàng Trần Nhân Tông. Dòng thiền được coi là dòng Phật giáo chính thống thời Đại Việt, và phát triển rực rỡ khi đó. Dòng thiền này mang ý thức nhập thế, đạo hòa với đời, không rời ra thế gian. Thời Đại Việt, những vị sư có công rất lớn trong việc chống giặc ngoại xâm, giữ hòa bình cho đất nước.

Cùng với quần thể di tích danh thắng Yên Tử (Quảng Ninh), hành cung Vũ Lâm (Ninh Bình), chùa Côn Sơn (Hải Dương), chùa Quỳnh Lâm (Quảng Ninh), chùa Vĩnh Nghiêm, (Bắc Giang), chùa Bổ Đà được coi là ngôi chùa có tiếng về dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Vì vậy, có thể nói rằng, chùa Bổ Đà, ngay từ trong lòng, đã mang cốt cách Việt Nam, từ nội dung kinh sách, đến kiến trúc ngôi chùa. Xung quanh những câu chuyện kể về chùa Bổ Đà, còn nhiều chi tiết “phép màu hóa”; tuy nhiên, qua đó để thấy rằng, ngôi chùa này sơ khai hình thành đã chấp nhận tín ngưỡng của người Việt, đó là mang màu sắc “uống nước nhớ nguồn”, trọng sinh sôi nảy nở, nối dõi tổ tông.

Khoảng sân rêu phong của ngôi chùa cổ.

Tác giả Đỗ Huệ - Cao Tuân, cho biết, điển tích về chùa Bổ Đà mang nhiều huyền bí, tương truyền, vào khoảng thế kỷ thứ XI, dưới chân núi Bổ có một gia đình tiều phu tuy nghèo nhưng rất tốt bụng, chăm chỉ hiền lành, dân trong làng ai cũng quý mến. Hiềm một nỗi đã ngoài 40 tuổi mà họ vẫn chưa có con. Ngày tháng qua đi, họ chỉ còn biết cầu khấn "Quan Thế Âm Bồ Tát" và lời cầu của họ đã ứng nghiệm.

Một hôm, người chồng vào rừng gặp một cây thông già trên núi, ông giơ rìu định chặt về nhưng khi bổ nhát đầu tiên, bỗng dưng từ thân cây bật ra 32 đồng tiền (đó là 32 phép ứng hiện của "Quan Thế Âm Bồ Tát"). Người tiều phu sung sướng chạy về khoe với dân làng, ai cũng mừng cho họ. Ít lâu sau vợ ông sinh được một cậu con trai khôi ngô, tuấn tú, ông đặt tên là Minh. Để tỏ lòng thành và tạ ơn Quan Thế Âm Bồ Tát, ông dựng chùa ngay gốc cây thông già. Đó chính là chùa Quan Âm, dân gian thường gọi là chùa Bổ - núi Bổ Đà.

Lưu giữ cổ vật đặc biệt

Tài liệu từ Phòng Văn hoá và Thông tin huyện Việt Yên cũng cho biết, chùa Bổ Đà có khu vườn tháp rất rộng lớn, đây là nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục thân của các tăng ni dòng thiền Lâm Tế, vườn nằm ở bên trái khu Nội tự và Vườn chùa. Đó là bãi đất nằm nghiêng theo độ cao của núi Bổ Đà có diện tích gần 8.000 m². Bao quanh vườn tháp nhà chùa đã dùng đá núi, gạch chỉ và đất tạo nên bức trường để giữ gìn yên tĩnh giấc ngủ ngàn thu cho các những nhà tu hành đắc đạo. Vườn tháp chùa Bổ Đà vẫn còn nguyên vẹn và nay trở thành vườn tháp cổ và có quy mô rộng lớn.

Qua gần ba trăm năm hưng thịnh, và kể từ khi sư tổ có tên tục là Phạm Kim Hưng viên tịch đến nay, sơn môn Bổ Đà đã xây dựng tất cả 107 ngôi tháp lớn nhỏ xếp hàng hàng, lớp lớp với nhiều kiểu loại khác nhau. Trong vườn tháp, ta thấy đa số là những ngôi tháp ba, bốn tầng với độ cao từ ba đến năm mét, riêng mấy ngôi tháp sư tổ thì đồ sộ cao rộng hơn nữa.

Vườn tháp tại chùa Bổ Đà.

Tàng chứa trong 107 ngôi tháp cổ là mộ, xá lị, tro cốt của trên 1218 nhà sư tu hành đắc đạo của dòng thiền phái Lâm Tế khắp nơi trên cả nước từ gần ba thế kỷ nay. Điều độc đáo mà du khách được chiêm bái ở vườn tháp chùa Bổ Đà, đó là trong vườn có cả tháp mộ sư tăng, sư ni (điều hiếm thấy ở các dòng phái khác). Tháp mộ sư tăng trên đỉnh tháp bao giờ cũng gắn bình cam lộ đặt trên tòa sen. Tháp sư ni thì khác, đỉnh tháp mộ lại được gắn một búp sen.

Không những thế, chùa Bổ Đà còn lưu giữ Bộ mộc bản kinh phật của thiền phái Lâm Tế khắc trên gỗ thị cổ nhất. Bộ kinh Phật trên được khắc vào năm 1740, đời vua Lê Cảnh Hưng. Hầu hết các ván kinh trong kho mộc bản tại chùa Bổ Đà đều dài 50 cm - 60 cm, rộng 25- 30 cm và dày 2,5 cm cũng có cả những ván kinh khổ rất lớn 150x30x2,5. Các ván kinh được khắc bằng cả chữ Hán chữ Nôm và chữ Phạn. Gỗ được dùng khắc kinh là gỗ thị, chưa bị mối mọt, không dùng hóa chất. Trên các tấm kinh còn khắc hình Đức Phật Tổ Như Lai, Quan Thế Âm Bồ Tát, các vị La Hán…

Vì sao chùa Bổ Đà là nơi tu luyện và đào tạo tăng đồ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, nhưng tại đây lại lưu giữ tro cốt các nhà sư tu hành đắc đạo của dòng thiền phái Lâm Tế, cũng như lưu giữ Bộ mộc bản kinh phật của thiền phái Lâm Tế. Lật lại lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã hòa vào cùng dòng thiền phái Lâm Tế.

Có tài liệu chép, vua Trần Thái Tông từng tham công án và sử dụng các giáo lý của Tông Lâm Tế như Tam Huyền, Tam Yếu và bình giảng, làm kệ tụng về một số công án Thiền. Phật Hoàng Trần Nhân Tông cũng ảnh hưởng nhiều từ bộ Đại Huệ Ngữ lục của Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo (đời thứ 12 phái Lâm Tế) và từng nhiều lần giảng bộ ngữ lục này cho tăng chúng.

Chúng tôi tới chiêm bái chùa Bổ Đà vào mùa xuân, những bức tường cổ rêu phong, cảnh thiên nhiên yên tĩnh. Những gì mà chùa lưu giữ đến hôm nay, càng khiến cho người chiêm bái như đang lạc vào “cảnh xưa, người cũ”, cùng sống lại thời đó, cùng thả hồn vào thanh vắng, và chiêm nghiệm lại những lời Phật dạy, những giáo hóa hữu ích cho loài người.

Đến chùa Bổ Đà, chúng ta bắt gặp màu gạch đỏ xưa cũ đan cài màu xanh rêu, tạo ra cảm giác yên bình đến lạ. Nhất là qua vườn tháp, chúng ta càng cảm thấy biết ơn hơn những vị sư, những người đã cống hiến hết mình cho Phật giáo nước nhà. Từ đó, họ muốn hướng con người sống lương thiện, từ bi, học Đức Phật lối sống thanh cao, vì đời.

Được biết, năm 1992, chùa Bổ Đà được công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia và ngày 07/5/2016, Tổ chức kỷ lục Việt Nam đã ghi nhận và xác lập Chùa Bổ Đà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang là “Ngôi chùa có vườn tháp lớn nhất Việt Nam” và “Bộ mộc bản kinh Phật của thiền phái Lâm Tế khắc trên gỗ thị cổ nhất”.

Vũ Đoàn
'Tàng kinh các' lưu giữ cả ngàn tấm mộc bản thời Lý - Trần


Chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) là một di tích quốc gia đặc biệt, mang đậm dấu ấn văn hoá và lưu giữ những "báu vật" thời Lý - Trần.

Bên cạnh những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, chùa Bổ Đà hiện nay còn lưu giữ một kho tàng di sản Hán Nôm trên nhiều loại hình và Bộ ván kinh Phật là một trong những Bộ kinh khắc gỗ cổ nhất Việt Nam với hơn 2000 mộc bản, có ý nghĩa to lớn cho việc nghiên cứu khoa học

Chùa Bổ Đà, còn được gọi là chùa Bổ, chùa Tam Giáo, chùa có tên chữ là Tứ Ân tự. Chùa toạ lạc trên ngọn núi Phượng Hoàng, bờ tả dòng sông Cầu, thuộc địa phận thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Chùa nằm cách trung tâm thị trấn Bích Động khoảng 10 km về phía Tây. Chùa Bổ Đà là một trong những danh lam cổ tự nổi tiếng của vùng Kinh Bắc xưa nay.

Chùa đã được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt năm 2016.


Chùa Bổ là một trong những nơi còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống.

Tại chùa hiện đang lưu giữ 1953 ván mộc bản kinh phật bằng chữ Nôm và chữ Phạn, được các thiền sư phái Lâm Tế khắc vào khoảng đời vua Lê Cảnh Hưng. Tiêu biểu là các bộ kinh: Lăng Nghiêm Chính Mạch, Yên Ma Hội Bản, Nam Hải Ký Quy.


Những bộ kinh này được khắc trên gỗ thị, vừa dẻo, vừa dai lại giữ được lâu.

"Nội dung trên mộc bản ở chùa là 24 bộ kinh, có nội dung hướng thiện, hướng thượng và hướng giải thoát", Trụ trì chùa Bổ Đà Tự Tục Vinh cho biết.

Bộ mộc bản kinh phật chính là kho báu vô giá của chùa Bổ Đà, được công nhận là bảo vật quốc gia từ tháng 3/2018.


Mộc bản chùa Bổ Đà do các nghệ nhân ở vùng Kinh Bắc xưa khắc thành nhiều đợt. Nhiều trang mộc bản được khắc đan xen những bức họa đồ minh họa, đường nét tài hoa tinh tế, bố cục chặt chẽ hài hòa xứng đáng là tác phẩm đồ họa có giá trị thẩm mỹ cao.

Hoàng Mạnh Thắng
Giai thoại về tên gọi chùa Bổ Đà ở Bắc Giang

Phía sau tên gọi của chùa Bổ Đà ở Bắc Giang là một câu chuyện mang màu sắc huyền bí mà không phải ai cũng biết.

Nằm ở xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, chùa Bổ Đà hình thành từ thời nhà Lý, là một ngôi chùa cổ có tầm quan trọng đặc biệt của Phật giáo Việt Nam. Phía sau tên gọi của chùa là một câu chuyện mang màu sắc huyền bí mà không phải ai cũng biết

Tương truyền, vào khoảng thế kỷ thứ 11, vùng đất Tiên Sơn có một gia đình tiều phu tuy nghèo tốt bụng, nhưng đã ngoài 40 tuổi mà họ vẫn chưa có con. Một hôm người chồng vác búa cắp rìu lên núi kiếm củi. Khi chặt một gốc thông già, mỗi nhát bổ ông lại niệm "Quan thế âm Phật". 

Sau đó, ông bỗng thấy có 32 đồng tiền rơi ra từ gốc cây. Lấy làm lạ, ông hỏi vị cao tăng gần nhà thì vị này bảo rằng: "Đức Phật quan âm có 32 điều ứng". Người tiều phu quay lại gốc thông khấn cầu rằng: "Nhược bằng đức Phật quan âm phù hộ cho tôi sinh con trai, tôi xin dựng chùa thờ"

Quả nhiên sau đó người tiều phu có con trai thực, rồi ông dành dụm được ít tiền bèn dựng một ngôi chùa ngay gốc cây thông già linh thiêng, lợp gianh và tô một pho tượng Quan âm Tống Tử để hương khói phụng thờ

Sau dần dần nhiều người qua lại lễ bái, cầu việc gì cũng đều biến ứng, bèn trở nên nơi danh lam thắng cảnh, vì thế gọi tên là chùa ông Bổ (chữ bổ bắt nguồn từ hành động bổ củi của ông tiều phu). Vì là chùa thờ Phật Đà (gốc từ chữ Buddha – Đức Phật trong tiếng Phạn) nên lại gọi là chùa Bổ Đà. 

Ngoài câu chuyện trên, cũng có cách giải thích khác rằng, Bổ Đà là cách gọi chệch từ Phổ Đà - có nguồn gốc từ chữ Phật Đà. Đây là nơi đức Quán Âm Bồ Tát ứng hiện cứu đời nên còn được gọi là chùa Quán Âm. Sau này, chùa bao gồm cả chùa Tứ Ân, nên nó còn có tên Tứ Ân Tự…

Trong nhiều thế kỷ, chùa Bổ Đà là một trong những trung tâm Phật giáo lớn của dòng thiền phái Trúc Lâm, đồng thời là một trong những ngôi chùa còn giữ nguyên bản nét kiến trúc truyền thống Việt cổ cho đến nay.

Chùa có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam, đó là lối kiến trúc "nội thông ngoại bế" tạo vẻ u tịch, thanh vắng, linh thiêng.

Hệ thống bố cục kiến trúc của chùa hài hòa, được xây dựng bằng các vật liệu gạch nung, ngói, tiểu sành, tường bao được làm bằng đất rất độc đáo

Hiện chùa Bổ Đà còn nhiều tài liệu, hiện vật, cổ vật quý có giá trị lớn về mặt văn hóa, lịch sử, kiến trúc và mỹ thuật. Đặc biệt là Mộc bản kinh Phật cổ nhất Việt Nam được khắc trên gỗ thị

Gần đây người ta phát hiện thấy một di vật rất thú vị của nhà văn Nguyên Hồng tại chùa, đó là một bản chép tay những quy chế của nhà chùa hồi ông trốn đời đi tu.

Với những giá trị to lớn về lịch sử, kiến trúc và văn hóa, vào năm 2016 chùa Bổ Đà đã được công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam

Quốc Lê
Về miền đất Phật Bổ Đà

Vùng đất Kinh Bắc, nơi hội tụ những nét văn hóa truyền thống đẹp và tiêu biểu nhất của Đồng bằng Bắc bộ. Nơi đây cũng chính là vùng đất khởi thủy của Phật giáo Ấn Độ khi truyền vào Việt Nam, với chứng tích Luy Lâu mà sử sách đã ghi chép.

Ở mảnh đất này cũng đang tồn tại những công trình Phật giáo rất tiêu biểu và kỳ vĩ. Chúng tôi muốn nhắc tới sơn môn Bổ Đà và khu mộ tháp cổ lớn nhất Việt Nam tọa lạc tại thôn Thượng Lát, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, Bắc Giang.

99 mộ tháp linh thiêng, cổ kính

Toàn bộ khu mộ tháp linh thiêng, cổ kính nằm giữa cỏ cây núi rừng

Chùa Bổ Đà có tên chữ là Tứ Ân Tự, còn gọi là chùa Quan Âm, cách Hà Nội gần 60km về hướng Đông Bắc. Thực hiện một chuyến hành hương về vùng đất Phật cổ miền Kinh Bắc không phải mùa lễ hội có một cảm giác rất thú vị. Xuôi theo con sông Cầu nước chảy lơ thơ, du khách sẽ được về vùng đất cổ nơi có sơn môn Bổ Đà của thiền phái Lâm Tế.

Giữa một vùng trời đất mênh mông, bao la của vùng mạn Bắc sông Cầu, con người như lạc vào chốn thiền tự với nén hương lễ Phật. Sau khi vãn cảnh chùa, mọi người bắt đầu đi chiêm bái khu vườn tháp cổ. Đây được xem là vùng đất linh thiêng nhất của Phật giáo Kinh Bắc thuộc thiền phái Lâm Tế.

Trong một không gian tĩnh lặng gần như tuyệt đối, khu linh địa Phật giáo hiển hiện trước mắt du khách như một minh chứng tiêu biểu nhất cho sự uy nghi, cổ kính và thâm nghiêm nơi cõi thiền. Khu linh địa này rộng gần 1ha và có đến 99 ngôi tháp lớn, nhỏ xây ba, bốn tầng, là nơi lưu giữ tro cốt, xá lị của 1.214 cao tăng, thiền sư đã tu hành trong cả nước của thiền phái Lâm Tế.

Bên cạnh đó còn hàng trăm ngôi mộ lớn, nhỏ khác nhau nằm xen kẽ với các mộ tháp. Tất cả được phủ một lớp màu thời gian cũ kỹ nhưng vẫn lộ rõ những dòng chữ, cùng nghệ thuật xây dựng của người xưa.

Du khách đi thăm khu mộ tháp lớn nhất Việt Nam tại chùa Bồ Đà

Những mộ tháp đều được xây bằng chất liệu rất đặc biệt là đá và gạch đỏ, bít mạch bằng vôi vữa trộn với mật mía cùng bột giấy bản nên rất bền và mịn. Các ngôi mộ tháp có hình khối vuông nhỏ dần lên phía trên, độ cao trung bình từ 3 – 5m.

Trên đỉnh tháp thường được xây cách điệu hình ảnh búp sen, hoặc tòa sen trên có biểu tượng bình cam lộ đặc trưng của nhà Phật. Mặt trước của tháp ở tầng hai thường có một hay vài ô cửa nhỏ để bát hương, bài vị của các cao tăng, thiền sư đã viên tịch…

Người viên tịch đầu tiên cách đây gần 300 năm, được xây tháp để an táng ở khu linh địa này chính là vị tổ sư, tên tục là Phạm Kim Hưng. Sau đó lần lượt 98 mộ tháp khác được xây dựng lên!

Có ngôi mộ tháp là nơi an nghỉ của 26 nhà sư, mộ tháp ít cũng có tro cốt của 4-5 nhà sư. Họ đều là huynh đệ cùng một mái chùa, cùng thiền phái Lâm Tế, cùng tu một thầy, trọng tình và thân thiết với nhau trong lúc sống, muốn khi về cõi cực lạc vẫn được nằm cạnh nhau.

Khu linh địa với 99 mộ tháp ở chùa Bổ Đà đã trở thành một danh lam cổ tự tiêu biểu và độc đáo nhất vùng Kinh Bắc nói riêng, Việt Nam nói chung, đã và đang thu hút nhiều du khách thập phương đến chiêm bái và nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo về đây tìm hiểu, sưu tầm về thiền phái Lâm Tế mạn sông Cầu.

Kho kinh khắc trên gỗ thị ở chùa Bổ Đà

Và những vẻ đẹp khác

Ngoài khu linh địa mộ tháp độc đáo, khi đến chùa Bổ Đà, du khách còn có dịp tận mắt nhìn thấy kho kinh Phật cổ khắc trên gỗ thị. Đây được xem như một tàng kinh các đồ sộ và tiêu biểu thứ hai ở Bắc Giang, sau bộ kinh khắc trên ván gỗ đã được UNESCO công nhận di sản tư liệu của nhân loại ở chùa Vĩnh Nghiêm (Đức La, Trí Yên, Yên Dũng).

Tường đất có mái, trộn sành ở chùa Bổ Đà toát lên vẻ bình dị, cổ kính

Đến chùa Bổ Đà, mọi người cũng sẽ được ngắm hàng trăm mét tường vây làm bằng đất. Đây được xem là ngôi chùa hiếm hoi ở vùng Đồng bằng Bắc bộ vẫn giữ được nét đặc trưng cổ xưa này.

Các bức tường đất này dày đến 60 – 70cm, rêu phong, trên đỉnh tường lại có mái được đỡ bằng những mảnh sành, sứ. Tường đất trộn mảnh sành ở chùa Bổ Đà đã có từ hàng trăm năm, trở thành một vẻ đẹp cổ kính in đậm vào lòng người.

Những tảng đá khổng lồ trên núi Bổ Đà có hình thù rất lạ mắt

Men theo hệ thống bậc gạch thoai thoải sườn núi, thấp thoáng những bãi đá có hình thù rất kỳ quái và lạ mặt. Bãi đá cổ này nằm dưới chân rừng thông bạt ngàn. Có những tảng đá khổng lồ, to một mái nhà với hình dáng làm người ta liên tưởng đến hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, Thanh Hóa…

Triền đê xanh trên đường về chùa Bổ Đà

HẢI DƯƠNG

Chùa Bổ Đà đẹp như chốn tiên cảnh ở Bắc Giang

Khu di tích chùa Bổ Đà là một danh lam cổ tự nổi tiếng của vùng Kinh Bắc xưa nay thuộc địa phận hành chính của xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.

Trên các trang mạng xã hội, bộ ảnh về chùa Bổ Đà của nhiếp anh gia Trần Việt Đức (Hà Nội) đang thu hút hàng nghìn lượt thích và chia sẻ, hàng trăm bình luận bởi vẻ đẹp thanh tịnh, cổ kính, trầm mặc và bình yên rất đặc biệt. 




Là một trong những ngôi chùa cổ kính, linh thiêng nhất của miền Kinh Bắc, chùa có tên gọi chính xác là chùa Quán Âm núi Bổ Đà hay Bổ Đà Sơn Quán Âm Sơn Tự, gọi tắt là chùa Bổ hay Tứ Ân Tự. Chùa toạ lạc ở vị trí phong thuỷ đắc địa, nằm về phía Bắc của chân núi Phượng Hoàng thuộc dãy núi Bổ Đà, xa xa là dòng sông Cầu thơ mộng.


Chùa bắt đầu có từ thời nhà Lý và được xây dựng lại dưới triều vua Lê Dụ Tông. Hiện nay khu di tích chùa Bổ Đà gồm rất nhiều hạng mục lớn nhỏ trong đó có 4 hạng mục chính, đó là Chùa Cao, am Tam Đức, Chùa Tứ Ân, Vườn Tháp.



Chùa được xây dựng bằng các vật liệu như gạch nung, ngói, tiểu sành…Tường bao được làm bằng đất rất độc đáo. Các bức tường, cổng và một số công trình khác được xây dựng hoàn toàn bằng đất nện theo lối chình tường.



Khu di tích chùa Bổ Đà có kiến trúc độc đáo và khác biệt so với các ngôi chùa truyền thống ở miền Bắc Việt Nam. Đó là lối kiến trúc ‘‘nội thông ngoại bế”, được bao bọc bởi hệ thống rặng tre xanh tốt và hệ thống tường trình đất như một chiến lũy bảo vệ vững chắc, tạo nên vẻ u tịch, linh thiêng…


Các mảng chạm khắc tinh xảo tại các hạng mục kiến trúc của di tích thể hiện nhiều đề tài phong phú như: hoa văn vân mây, vân xoắn, hoa cúc, hình lá lật, linh thú, đề tài tứ linh, tứ quý… như một bảo tàng kiến trúc mang phong cách nghệ thuật đan xen giữa thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII) và thời Nguyễn (thế kỷ XIX)

Vườn tháp chùa Bổ Đà là một trong những vườn tháp đẹp và lớn nhất trong cả nước, gồm 110 ngôi tháp và mộ lớn nhỏ khác nhau. Trong đó, có 97 ngôi tháp cổ có lịch sử hàng trăm năm là nơi tàng lưu tro cốt xá lỵ nhục thân của 1214 tăng ni phật tử thiền phái Lâm Tế trong cả nước. Các ngôi tháp đều được xây bằng gạch và đá, với kỹ thuật truyền thống bắt mạch vôi mật mía. Các ngôi tháp mộ xếp hàng hàng, lớp lớp và được xếp đặt theo những qui định riêng rất chặt chẽ của thiền môn.


Mỗi tháp ít nhất cũng an táng từ 4 thi hài đến 26 thi hài, tất cả các tháp đều có cửa dạng cuốn vòm nhìn về hướng Đông Bắc. Trong số 3 cuốn gia phả bằng chữ Hán ghi rất rõ ràng: "Chỉ những người trong phái Sơn Môn mới được an táng tại vườn tháp, tháp của tăng có hình bình cam lộ trên đỉnh, tháp của ni có trên ngọn có hình hoa sen.

Bên cạnh những giá trị về kiến trúc, thẩm mỹ, chùa Bổ Đà hiện nay còn lưu giữ một kho tàng di sản Hán Nôm trên nhiều loại hình và Bộ ván kinh Phật là một trong những Bộ kinh khắc gỗ cổ nhất Việt Nam với hơn 2000 mộc bản, có ý nghĩa to lớn cho việc nghiên cứu khoa học.

Với giá trị đặc biệt tiêu biểu, di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật Chùa Bổ Đà (huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt tại Quyết định số 2499/QĐ-TTg ngày 22/12/2016.

Nhiếp ảnh gia Trần Việt Đức chia sẻ, lý do anh chụp bộ ảnh này là vì rất thích sự cổ kính, mộc mạc, những giá trị về mặt tôn giáo và bảo tồn mộc bản kinh phật của chùa Bổ Đà. Phong cách thiết kế “nội thông ngoại bế” và cách sử dụng các chất liệu có sẵn ở địa phương cũng là nét đặc biệt thu hút chàng nhiếp ảnh gia trẻ tuổi. Ngôi chùa khiến cho bất cứ ai khi bước chân vào đều cảm thấy tâm trí trở nên thanh tịnh, trầm lắng và bình yên. Dường như mọi bộn bề lo toan đều dừng lại trước cảnh cổng chùa mộc mạc đã nhuốm màu thời gian. Ngay cả giữa những ngày hè nắng cháy, trong chùa vẫn luôn ngập tràn sự mát lành và dễ chịu.



Khi bộ ảnh được đăng tải, có rất nhiều người chia sẻ cảm nhận của mình về chùa Bổ Đà và cũng có nhiều người ngạc nhiên vì không nghĩ lại có ngôi chùa đẹp đến thế ngay gần Hà Nội.

“Mình đi cũng đã được tới khá nhiều chùa, và đây là ngôi chùa đẹp nhất, tịnh nhất mà mình từng tới.”

“Cảm giác cực bình yên luôn ấy. Đi không muốn về.“

“Năm nào nhà mình cũng đến chùa ít nhất một lần vào những dịp vắng khách, đó cũng là những khoảng thời gian thư thái hiếm có của mình trong năm.”

“Không ngờ rằng vẫn còn có những ngôi chùa cổ đẹp như thế này. Hi vọng nơi đây vẫn giữ được nét cổ kính này và chờ mình đến thăm một ngày nào đó…”




Thùy Chi - Ảnh: Trần Việt Đức

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét