3 tháng 11, 2025

Chùa Phù Châu (xã Cái Bè)

 Lịch Sử Chùa Phù Châu, xã Cái Bè

Chùa Phù Châu tọa lạc tại ấp An Ninh, xã Đông Hòa Hiệp, thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang (nay thuộc xã Cái Bè, tỉnh Đồng Tháp) do Thượng tọa Thích Huệ Nhẫn đương nhiệm trụ trì.

Vào đầu thế kỷ XVIII vùng đất ở An Bình (Gia Định) đã có nhiều dân cư tập trung để khai hoang lập ấp, lập chợ để giao thương; các phương tiện đi lại lúc này được sử dụng bằng bè tre. Chợ An Bình Đông lúc này là đầu mối giao thương hàng hóa nông sản địa phương đi các nơi nên thường xuyên có thuyền bè neo đậu kín cả khúc sông, vì vậy tên gọi “Cái Bè” cũng được hình thành từ đó.

Năm 1732 chúa Nguyễn vì thấy địa thế của vùng đất Cái Bè đặc biệt - Theo sách Gia Định thành thông chí viết: “Đây là vùng đất có dãy sông lớn ôm quanh, giữ thế quan yếu, đúng là phên giậu vững vàng của thành Gia Định, khống chế Cao Miên, hai con sông lớn chẹn chỗ hiểm yếu, giao thông đường thủy hết sức thuận lợi, ruộng vườn cũng rất tốt tươi” - nên mới thiết lập Dinh Long Hồ tại thôn An Bình, huyện Kiến Đăng (nay thuộc khu vực Chợ Nổi Cái Bè) để quản lý vùng đất phương Nam vừa được khai phá, ổn định; và vì vậy Dinh này cũng được gọi là Dinh Cái Bè.


Theo truyền thống tập tục của người Việt, mỗi khi đến vùng đất mới, người dân thành lập đình, miếu, chùa chiền để thờ cúng và cầu nguyện cho công cuộc khai mở được thuận lợi – làm chổ dựa tinh thần vững chắc trong cuộc sống. Với tinh thần đó, vào năm 1890 người dân làng Bình An Đông lúc bấy giờ chung nhau lập nên ngôi Chùa bằng cây lá ở cạnh mé sông để thờ Phật, nhưng vì địa phương không có cao Tăng nên họ đã đến Dinh quan Ký lục để xin hiệu chùa. Quan Ký lục là một nhà Nho văn chương uyên bác, thấy vị thế ngôi chùa nằm cạnh bờ sông, đẹp như một viên ngọc trên mặt nước, nên cho hiệu là “Phù Châu Tự”, tức Chùa Phù Châu.

Đến giữa thế kỷ XIX, làng Bình An Đông có bốn dòng họ giàu có là: Họ Đặng, họ Đoàn, họ Trần và họ Nguyễn, thường gọi là bốn họ tiền hiền. Vì thấy chùa Phù Châu nằm sát bờ sông có nhiều bất tiện nên bốn họ này đã bàn với bổn đạo di dời ngôi Chùa về vị trí như ngày nay; đồng thời xây dựng lại ngôi chùa với quy mô hơn bằng chất liệu gỗ quý.


Sau đó chùa Phù Châu cũng lần lượt được ba vị thiền sư nối tiếp nhau về trụ trì là: - Thiền sư Minh Tánh, tức Chánh Lý Tôn Chứng, đời thứ 38 phái thiền Lâm Tế.

- Thiền sư Minh Trung, tức Trí Thắng Đại Sư, đời thứ 38 phái thiền Lâm Tế.

- Thiền sư Minh Giáo, tức Chánh Truyền Đại Sư, đời thứ 38 phái thiền Lâm Tế.

Cả ba vị Thiền sư này đều là đệ tử chùa Hòa thượng Bửu Thiên (tổ đình Đức Lâm) và Hòa thượng Từ Lâm (tổ đình Bửu Lâm, Mỹ Tho).


Tiếp nối ba vị Thiền sư giai đoạn đầu trụ trì chùa Phù Châu là Thiền sư Hải Huệ, hiệu Minh Thông. Thiền sư Hải Huệ là một vị Cao Tăng thời bấy giờ, Ngài đã trụ trì chùa Kim Cang và Đại Giác (Biên Hòa) trước khi về hành đạo tại Phù Châu. Tại đây chỉ có vài năm nhưng Ngài đã tế độ nhiều đệ tử, trong đó có ngài Như Ngộ hiệu Chánh Thành đã kế thừa trụ trì bổn tự, sau khi Thiền sư Hải Huệ tiếp tục vân du hành đạo và về lại quê nhà, trụ trì tổ đình Bửu Lâm (Cái Bèo, Cao Lãnh).

Đến khoảng năm 1880, ngài Tăng cang - Hòa thượng Thích Minh Giác (Trụ trì tổ đình Sắc tứ Kim Chương) đã cử hai đệ tử là ngài Thanh An hiệu Bổn Ký đại sư và ngài Thanh Liêm hiệu Bửu Thắng đại sư (1846 – 1910) về hành đạo tại chùa Phù Châu.


Hòa thượng Thích Bửu Thắng xuất gia từ nhỏ và có đạo hạnh uyên thâm. Ngài là người có nhiều công lao và trụ trì chùa Phù Châu lâu năm nhất. Trong thời gian hành đạo tại bổn tự, Hòa thượng đã tổ chức Đại Giới đàn tại đây để truyền giới cho bốn chúng; với cương vị Đường đầu Hòa thượng, Đại Giới đàn đã góp phần thắp sáng đèn thiền cho Phật giáo vùng đất phương Nam. Sau khi hóa duyên ký tất,nhục thân của Hòa thượng được môn đồ tứ chúng nhập bảo tháp tôn thờ tại khuôn viên chùa.


Kế thế trụ trì chùa Phù Châu từ năm 1910 là Đại sư Trí Chất (1822 – 1925). Ngài là người địa phương, xuất gia với Hòa thượng Thích Bửu Thắng nhưng cầu pháp học đạo với Hòa thượng Minh Hòa – Hoan Hỷ tại chùa Long Thạnh (Bà Hom) nên có Pháp danh là Như Trực hiệu Trí Chất, thuộc dòng Lâm tế Gia phổ đời thứ 39. Ngài được Tăng chúng tôn làm Yết-ma trong Đại Giới đàn tổ chức tại Chùa vào năm 1924. Đến năm 1925 thì viên tịch, trụ thế 44 năm, bảo tháp nhục thân của Ngài hiện ở bên phải vườn chùa.


Thiền sư húy Hồng Tường hiệu Huệ Cảnh, đời thứ 40 Thiền phái Lâm tế Gia phổ là đệ tử của ngài Yết-ma Trí Chất đã nối nghiệp của Thầy trụ trì chùa Phùa Châu. Hòa thượng Thích Huệ Cảnh sinh năm 1908. Năm 1970, Hòa thượng đã cho xây dựng lại ngôi Đại hùng Bảo điện chùa Phù Châu bằng vật liệu bê tông cốt thép hiện đại. Năm 1978 Hòa thượng viên tịch, trụ thế 72 năm, bảo tháp nhục thân của Ngài hiện nay ở phía trước sân chùa.

Sau khi Hòa thượng Thích Huệ Cảnh viên tịch, chùa Phù Châu được Đại đức Thích Nhật Tấn đảm nhiệm Giám tự, chăm lo hương khói ngôi Tam bảo trong thời gian 18 năm cho đến khi viên tịch vào năm 1996.


Thời gian từ năm 1996 đến 1999, chùa Phù Châu không có người trụ trì chăm sóc nên bị xuống cấp trầm trọng. Mãi đến năm 2000, Phật tử bổn tự đã đến thỉnh cầu Hòa thượng Thích Minh Trí, trụ trì tổ đình Phước Lâm (Cai Lậy) giới thiệu người về chăm lo Tam bảo, qua giới thiệu của Hòa thượng, Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Tiền Giang đã bổ nhiệm Thượng tọa Thích Huệ Nhẫn về trụ trì chùa Phù Châu và điều hành Phật sự tại đây cho đến ngày nay.

Thượng tọa Thích Huệ Nhẫn thế danh Huỳnh Tấn Tuấn, xuất gia tu học với Hòa thượng Thích Thiện Đạo tại chùa Phước Linh (Mỹ Tho). Những năm đầu tiếp nhận trụ trì chùa Phù Châu với thực trạng chùa đang xuống cấp và rất nhiều khó khăn nhưng Thượng tọa Thích Huệ Nhẫn đã từng bước khắc phục và xây dựng đạo tràng tu học có nề nếp.


Được sự phát tâm trợ duyên của Giáo sư Lương Minh Đáng, Pháp danh Minh Thiện (là một Phật tử của Chùa đang định cư tại nước ngoài) hiệp cùng với Phật tử tại địa phương đã cùng nhau xây dựng lại ngôi Chánh điện chùa Phù Châu bằng chất liệu bê tông cốt thép kiên cố; mái đúc dán ngói lưu ly, vách tường, cửa gỗ, nền lát gạch men. Công trình hoàn thành vào năm 2006.


Hiện nay chùa Phù Châu còn lưu giữ được nhiều pho tượng cổ như bộ tượng Di Đà Tam Tôn bằng đồng; tượng đức Phật A Di Đà bằng đất nung; tượng Bồ tát Quán Thế Âm bằng đá trắng; các tượng Bồ tát Chuẩn Đề, Hộ Pháp, Tiêu Diện, Minh Vương, Già Lam … bằng gỗ; tượng Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma bằng đồng.


Chánh điện thờ Tây phương Tam Thánh (Đức A Di Đà Phật tọa thiền hai bên là tượng Quán Thế Âm Bồ tát và Đại Thế Chí Bồ tát đứng hầu), sát vách hậu, phía dưới điện thờ Tây Phương Tam Thánh là một điện thờ Thất Phật và Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Hai góc phải và trái của Đại hùng Bảo điện là nơi đặt chuông và trống; cạnh đó có hai bàn thờ: Một bàn thờ Hộ Pháp Vi Đà và Thiện Hữu, một bàn thờ Ác Hữu và Tiêu Diện đại sĩ. Ở nội điện, trên đầu tường có rất nhiều bức phù điêu tả cuộc đời Đức Phật Thích Ca từ lúc sơ sinh đến khi nhập niết bàn. Ngoài ra, còn có các câu liễn cho thấy sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian.


Ngày 12 tháng 6 năm 2018 Thượng tọa Thích Huệ Nhẫn đã tiến hành khởi công trùng tu Bát Nhã đường bằng gỗ, tọa lạc phía sau ngôi Chánh điện và được liên kết bởi sân thiên tỉnh với hai lối đi đông và tây lang. Phía trong Bát Nhã đường có bàn thờ Tổ sư và ban thờ (hậu) thiện nam tín nữ quá vãng. Công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng vào năm 2022.

Thượng tọa trụ trì cũng tiến hành xây tường rào xung quanh chùa, dựng Đại tượng Bồ tát Quán Thế Âm và kiến tạo nhiều Phật cảnh trong khuôn viên chùa để làm nơi cho Phật tử cũng như bá tánh thập phương về chiêm ngưỡng, tập học các hạnh lành.

Song song với việc kiến tạo già lam, Thượng tọa Thích Huệ Nhẫn cũng không ngừng việc tiếp Tăng độ chúng, mở khóa tu học cho Phật tử; tích cực tham gia sinh hoạt với Giáo hội và các phong trào an sinh xã hội tại địa phương trong tinh thần Phật giáo đồng hành cùng dân tộc qua mọi thời đại.

Một số ảnh tư liệu:






Ban Biên Tập Lịch Sử Tự Viện Tiền Giang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét