Chùa thường gọi là chùa Bút Tháp, ở bên đê sông Đuống, thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Bút Tháp
Mặt tiền chùa
Nhiều tài liệu hiện nay cho biết chùa được dựng vào thời Trần. Sách Chùa Bút Tháp (Bùi Văn Tiến, 2000) cũng nói đến vị trụ trì chùa thời Trần là Thiền sư Huyền Quang, Trúc Lâm đệ tam tổ.
Dưới sự bảo trợ của triều đình, chùa được trùng tu vào thế kỷ XVII. Thiền sư Chuyết Chuyết (tên Lý Thiên Tộ, người tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc đến Thăng Long giảng dạy Phật pháp từ năm 1633) được mời trụ trì chùa cho đến khi viên tịch (1644). Vua Lê Chân Tông phong hiệu cho ông là “Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế Đại Đức Thiền Sư”. Đệ tử của ông là Thiền sư Minh Hành (người tỉnh Giang Tây, Trung Quốc) tiếp tục trụ trì chùa đến khi viên tịch (1659).
Việc hưng công ngôi chùa có quy mô lớn gắn với tên tuổi của giới quý tộc trong triều, là Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (con gái của Thanh vương Trịnh Tráng) pháp danh Diệu Viên, Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên pháp danh Diệu Tuệ và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ.
Một góc chùa
Chùa kiến trúc theo kiểu “Nội Công Ngoại Quốc”, gồm 10 nếp nhà với 162 gian nằm trên một trục dài hơn 100m. Qua tam quan, đến gác chuông hai tầng tám mái. Tiếp đến là nhà tiền đường, nhà thiêu hương, thượng điện. Ở đây còn nhiều di vật của thế kỷ XVII như hai tấm bia đá dựng năm 1647, tấm gỗ chạm hình rồng phượng, chiếc hương án gỗ. Chung quanh tòa thượng điện có lan can bằng đá với 26 bức phù điêu, trong đó, 8 bức chạm cỏ cây hoa lá gồm sen, cúc, trúc, lan, tùng… và 18 bức chạm các loài động vật (kèm với các hoa văn khác) gồm ngựa, dê, trâu, khỉ, cá…
Tòa thượng điện dựng trên nền cao hơn 1m, gian giữa thờ tượng Tam Thế Phật với hai bàn hương án bằng gỗ đều được chạm khắc vào thế kỷ XVII. Hai gian bên có nhiều tượng, đặc sắc là các tượng Tuyết Sơn, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, Quan Âm tọa sơn… và kiệt tác là bảo tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn do nhà điêu khắc họ Trương tạc năm 1656.
Điện Phật
Bàn thờ Phật
Tượng Bồ tát Quan Âm thiên thủ thiên nhãn
Tượng Bồ tát Phổ Hiền
Tượng Hộ Pháp
Tượng Tuyết Sơn (tượng gổ thế kỷ XVII)
Bảo tượng Quan Âm có 11 đầu, mặt chính nhìn phía trước, hai mang tai có hai mặt phụ. Đầu tượng đội thiên quan, phía trên đầu chính có các đầu nhỏ hơn xếp chồng lên nhau thành ba lớp, trên cùng là tượng đức Phật A Di Đà ngồi tòa sen trong tư thế thiền định. Chính giữa thiên quan là một đài sen, phía trên có phù điêu đức Phật A Di Đà ngồi thiền định, có đao lửa tỏa ra chung quanh, có rồng chầu hai bên.
Các đầu tượng đều có khuôn mặt của phụ nữ đôn hậu, tóc chải ngược lên đỉnh búi thành cuộn, mắt hé mở nhìn xuống, tai tượng lớn và dày, đeo hoa tai là bông sen nở. Cổ tượng cao, chạm thành ba ngấn.
Có 42 tay lớn, cánh tay đều để trần. Các ngón tay trong tư thế ấn quyết hoặc thiền định. Ngón tay búp măng, cổ tay đeo vàng kép nổi hạt ở giữa. Vòng dây chuyền đeo từ cổ xuống ngực. Ao tượng bó sát người với nhiều nếp phủ trên vai, bụng tượng thắt hầu bao. Tượng ngồi tư thế thiền định, bàn chân phải đặt ngửa trên đùi trái.
Vành tay phụ phía sau làm thành một vòng tròn lớn đặt rời ra phía sau tượng. Trên đỉnh chạm một con chim có hai đầu người, cánh lớn xòe ra ôm lấy hai bên, đuôi chổng ngược. Vành tay được trang trí bằng hai đường diềm là văn xoắn và hàng dây cúc. Các cánh tay nhỏ được xếp thành nhiều lớp (từ 6 lớp ở phía dưới đến 14 lớp ở phía trên). Có 789 tay dài ngắn khác nhau, trong lòng mỗi bàn tay có một con mắt được chạm chìm.
Đài sen được làm từ ba lớp cánh sen chính và một lớp phụ. Trong lòng mỗi cánh chính có hai gờ nổi nối từ gốc cánh sen lên phía trên rồi cuộn vào giữa để nâng nửa bông cúc mãn khai.
Tòa sen được một con rồng đội. Rồng có mắt lồi kép, sừng mai, tai hình lá, miệng há mở, có răng nhọn, miệng ngậm hạt minh châu. Rồng tạc kiểu nhô đầu và hai tay lên trên mặt biển cuộn sóng, trên mặt sóng là cua, ốc, trai, cá.
Bệ tượng được tạo thành nhiều cấp, nhiều lớp, được trang trí những hàng cánh sen, những vòng tròn kép, rồng và cá hóa long tranh nhau một quả cầu trên mặt bể, con lân đang vờn một viên ngọc lửa… Ở đây có ghi bằng chữ Hán niên đại tạo tượng: “Tuế thứ Bính Thân, thu nguyệt cốc nhật doanh tạo” và người tạo tác: “Nam Đồng Giao Thọ Nam Trương tiên sinh phụng khắc”.
Tượng có kích thước như sau: Chiều cao của tượng (tính từ đài sen lên): 235 cm; đầu rồng đội tòa sen: 30 cm; bệ tượng: 54 cm; chiều ngang của cánh tay xa nhất: 200 cm; chiều cao của vành tay phụ: 370 cm; đường kính của vành tay phụ: 224 cm.
Từ thượng điện, qua chiếc cầu đá ba nhịp đến tòa Tích Thiện am. Thành cầu cũng có 12 bức phù điêu đá miêu tả động vật và người.
Chính giữa lòng nhà tòa Tích Thiện am đặt cây tháp gỗ Cửu Phẩm Liên Hoa 9 tầng, 8 mặt, có thể quay tròn quanh một trục. Tháp mang ý nghĩa Cửu phẩm vãng sinh về thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. Tháp đặt nhiều pho tượng Phật, Bồ tát và trang trí nhiều mảng phù điêu lấy đề tài trong Phật thoại.
Sau Tích Thiện am là ba nếp nhà song song. Đó là nhà Trung, nhà Phủ thờ (có tượng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ) và nhà hậu đường thờ tượng tổ sư các đời.
Bên trái chùa còn có nhà tổ đệ nhất, thờ Thiền sư Chuyết Chuyết.
Chùa có ngọn tháp đá Báo Nghiêm cao hơn 13m, trong tháp, có tượng Thiền sư Chuyết Chuyết. Phía sau chùa có ngọn tháp đá Tôn Đức cao khoảng 10m, trong tháp, có tượng Thiền sư Minh Hành.
Chùa đã được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915-1921 và 1992 – 1996. Đây là ngôi chùa có kiến trúc quy mô, hoàn chỉnh nhất còn lại ở nước ta. Chùa được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia.
Cầu đá ba nhịp
Chạm khắc ở bệ thờ
Chạm đá hoa và thú
Một góc cây Cửu phẩm Liên Hoa trong Tích Thiện Am
Bia chùa
Một góc chùa
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Kiến trúc tuyệt mỹ của “Thiếu Lâm Tự” nổi tiếng Việt Nam
Gắn với sự nghiệp thiền sư Chuyết Chuyết đến từ Trung Hoa, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh còn được biết đến với tên gọi "Thiếu Lâm Tự". Đây được coi là một trong những ngôi chùa cổ có kiến trúc hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam.
Nằm ở thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, chùa Bút Tháp là một trong những ngôi chùa cổ có kiến trúc hoàn chỉnh nhất còn lại ở Việt Nam. Chùa còn được biết đến với các tên gọi khác chùa Nhạn Tháp, Thiếu Lâm Tự, Hoàng Cung Tự
Theo sách Địa chí Hà Bắc (xuất bản năm 1982), chùa Bút Tháp có từ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278). Đến thế kỷ 17, chùa trở nên nổi tiếng với sư trụ trì là Hòa thượng Chuyết Chuyết (1590-1644) đến từ Trung Hoa. Năm 1644, Hòa thượng viên tịch, kế nghiệp là Thiền sư Minh Hạnh
Vào thời gian này, Hoàng thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đã rời cung thất về chùa Bút Tháp tu hành. Thấy chùa bị hư nát nhiều, bà bỏ tiền của, ruộng lộc ra để trùng tu lại. Đến năm 1647, chùa mới được làm xong. Về cơ bản, quy mô và cấu trúc của chùa Bút Tháp hiện nay được xây dựng từ thời đó
Trải qua nhiều thế kỷ, chùa được trùng tu vào các năm 1739, 1903, 1915, 1921 và gần đây vào năm 1992-1996. Quần thể kiến trúc của chùa còn giữ lại nhiều di tích của thế kỷ 17
Cũng như nhiều ngôi chùa cổ phía Bắc khác, chùa Bút Tháp được xây theo kiểu nội công ngoại quốc, với các công trình kiến trúc được bố trí cân xứng, chặt chẽ ở khu vực trung tâm
Công trình ngoài cùng là tam quan, có kiến trúc tương đối giản dị. Tiếp đó là gác chuông 2 tầng 8 mái
Sau gác chuông là 7 tòa nhà nối tiếp nhau: Tiền Đường, Thiên Hương, Thượng điện, Tích Thiện Am, nhà Trung, phủ thờ, hậu đường, tổng chiều dài hơn 100 mét
Trong các công trình này, ấn tượng nhất là Tích Thiện Am, một tòa nhà ba gian hai chái, chính giữa có hai tầng gác nhô cao với các đầu đao uốn cong
Kết cấu các công trình của chùa Bút Tháp dùng khung gỗ chịu lực, phần nền bệ, lan can thì dùng đá
Nghệ thuật trang trí được thể hiện trên hầu hết các chất liệu gỗ, đá và các đồ thờ của chùa, trong đó nghệ thuật điêu khắc đá đạt đến đỉnh cao với các hình ảnh sống động tươi vui, hàm chứa ý nghĩa Phật đạo và đặc biệt mang đậm nét nghệ thuật thiền
Một tác phẩm điêu khắc đã tiêu biểu của chùa Bút Tháp là câu cầu nối giữa Thượng điện và Tích Thiện. Cầu bắc qua hồ nhỏ trồng sen, súng, dài 4 mét gồm 3 nhịp uốn cong, mặt lát đá xanh
Hai bên cầu có 12 bức phù điêu đá chạm chim muông, hoa lá, linh vật... rất công phu, tinh xảo, nối liền với các phù điêu đá ở lan can tòa Thượng điện
Đầu cầu là hai con sư tử đá
Một công trình bằng đá khác được coi là biểu tượng của chùa Bút Tháp, đó là tháp Báo Nghiêm. Tòa tháp trông như một cây bút khổng lổ gồ 5 tầng với chiều cao 13.05m, tầng đáy rộng với mái hiên nhô ra; bốn tầng trên gần giống nhau, mỗi cạnh rộng 2m
Tầng tháp dưới cùng có 13 bức chạm đá với đề tài động vật. Tháp thể hiện tài ghép đá và nghệ thuật điêu khắc của người thợ Việt Nam xưa
Tương truyền vào năm 1876, khi vua Tự Đức qua chùa thấy có một cây tháp hình dáng khổng lồ liền gọi tên là Bút Tháp, và ngôi chùa mang tên Bút Tháp từ đó
Các tòa tháp trong khu vườn tháp của chùa
Các công trình chính của chùa Bút Tháp được bao bọc bởi các dãy hành lang chạy dọc hai bên, mỗi bên gồm 26 gian
Trong chùa còn lưu giữ được rất nhiều cổ vật, đáng chú ý là một hệ thống tượng tròn rất đặc sắc so với những ngôi chùa cổ khác
Tượng Phật giáo ở đây có nhiều loại, như tượng các vị Bồ Tát, tượng Hộ Pháp, tượng các vị La Hán... trong đó có những pho rất quý, nổi tiếng cả nước và được giới nghiên cứu xem là khuôn mẫu của tượng Phật giáo Việt Nam
Nổi bật nhất trong chùa là pho tượng Phật Quan Âm nghìn tay nghìn mắt do nghệ nhân Trương Thọ Nam tạo tác và hoàn thành vào năm 1656. Đây là một kiệt tác hàng đầu về nghệ thuật tạc tượng làm nổi bật triết lý nhà Phật, và được công nhận Bảo vật quốc gia từ năm 2012
Tượng được đặt ở Thượng điện, cao 3.7m, ngang 2.1m, dày 1.15m, cánh tay dài nhất là 200cm, đặt trên tòa sen Rồng đội, biểu cảm thư thái, đôi mắt quảng đại, đằng sau là vầng hào quang tỏa sáng, bên dưới là các hình trang trí sóng nước như thuỷ cung
Nét đặc sắc của tượng là có đến 42 tay lớn và 958 tay nhỏ, dài ngắn khác nhau. Đặc biệt là mỗi bàn tay lại có một con mắt đen láy, nhịp điệu mỗi cánh tay cũng khác nhau. Cả nghìn tay nghìn mắt nhìn tổng thể như những vòng hào quang tỏa ra
Một cổ vật đặc sắc khác của chùa Bút Tháp là tòa Cửu phẩm liên hoa đặt bên trong Tích Thiện Am, một trong ba tòa Cửu phẩm liên hoa cổ xưa còn được gìn giữ ở Việt Nam
Đây là một tháp quay cao 9 tầng, 8 mặt. 9 tầng là 9 đài sen tượng trưng cho 9 cấp tu hành chánh quả của Phật giáo. 8 mặt là 8 phương của nhà Phật, được chạm những bức phù điêu liên quan đến tích Phật giáo, khuyến thiện trừ ác, hành trang các vị tổ, đại sư
Mỗi vòng quay của tháp ứng với 3.542.400 câu niệm phật. Dù được làm từ mấy thế kỷ trước, tòa Cửu phẩm vẫn có thể quay được và không hề phát ra tiếng kêu
Hàng năm, lễ hội chùa Bút Tháp được tổ chức vào ngày 23 - 24 tháng 3 Âm lịch với các hoạt động văn hóa truyền thống thu hút đông đảo người dân trong vùng và du khách thập phương về dự
Với những giá trị tiêu biểu về lịch sử và nghệ thuật, chùa Bút Tháp đã được xếp hạng là di tích cấp quốc gia từ năm 1962. Đến năm 2013, chùa được công nhận là di tích quốc gia đặc biệt của Việt Nam
Quốc Lê
Bút Tháp cổ tự
Nằm bên bờ đê Nam sông Đuống, thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh), chùa Bút Tháp trải qua hơn 8 thế kỷ với bao thăng trầm của lịch sử vẫn giữ được nét đẹp nguyên sơ, độc đáo về cảnh quan, kiến trúc, thu hút hàng trăm lượt du khách thăm quan mỗi ngày.
Trong cuốn Địa chí Hà Bắc xuất bản năm 1982 và cuốn sách Nghệ thuật Việt Nam (L’art vietnamien) của nhà nghiên cứu người Pháp L. Bezacier, xuất bản năm 1944 có nói về lịch sử hình thành ngôi chùa Bút Tháp. Theo các cuốn sách trên, chùa Bút Tháp có từ thời Trần, tức khoảng thế kỷ XIII. Cả hai cuốn sách đều đề cập việc Trạng nguyên Lý Đạo Tái (1254-1334) sau khi từ quan đã có thời gian về chùa Bút Tháp tu hành, lấy pháp danh là Huyền Quang.
Đến thế kỷ XVII, hoàng tộc triều Lê đóng góp tiền của tu sửa lại chùa Bút Tháp với quy mô rất lớn. Ở các giai đoạn sau, chùa tiếp tục được tu sửa nhỏ nhiều lần, nhưng về cơ bản, kiến trúc hiện nay chủ yếu của thế kỷ thứ XVII, gồm các hạng mục: tam quan, gác chuông, tiền đường, thiêu hương, tòa Thượng điện, tòa Tích thiện am, nhà trung, phủ thờ, hậu đường và hai dãy hành lang ở hai bên.
Ngoài giá trị về mặt kiến trúc, chùa Bút Tháp còn lưu giữ hàng trăm hiện vật, với nhiều loại chất liệu, có niên đại trải dài từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XX. Trong đó, nổi bật nhất là pho tượng “Phật bà nghìn tay nghìn mắt” được đặt trong tòa Thượng điện. Pho tượng này được đánh giá là tác phẩm kiệt xuất của nghệ thuật điêu khắc gỗ thế kỷ XVII còn bảo lưu nguyên vẹn đến ngày nay, đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2011.
Một điểm độc đáo khác của chùa Bút Tháp là nghệ thuật chạm khắc đá tinh xảo của các nghệ nhân dân gian. Tiêu biểu là hai công trình: hành lang tòa Thượng điện và tháp Báo nghiêm. Bao quanh Thượng điện cả 4 mặt là hành lang với một hàng lan can bằng đá xanh được chạm khắc rất điêu luyện các điển tích cổ như: “phượng vũ kỳ lân”, “song ngư hý nguyệt”, “cô lộ sơn lộc”, “tam dương triều nguyệt”, “tứ linh, tứ quý”, “lý ngư hoá long”, “tùng trúc đông thiên”.
Men theo lối hành lang Thượng điện, qua cây cầu đá du khách sẽ bắt gặp tòa Tích thiện am. Đây là kiến trúc đặc biệt nhất của chùa Bút Tháp. Toà này được kết cấu theo kiểu chồng diêm: tầng 1 gồm 5 gian, tầng 2 thu lại còn 3 gian, tầng ba thu lại còn 1 gian.
Toà Tích thiện am được dựng vào thế kỷ XVIII và đã được tu sửa nhiều lần. Trong Tích thiện am đặt Cửu phẩm liên hoa hay còn gọi là “Cối kinh”, đây là kiểu kiến trúc tiêu biểu của phái Mật Tông (bắt nguồn từ Tây Tạng, Trung Quốc). Cửu phẩm liên hoa là tháp gỗ 8 mặt, cao 7,8m, xếp 9 tầng theo kiểu tòa sen, thể hiện 9 kiếp tu của đức Thích Ca Mâu Ni. Chín tầng Cối kinh tạc tượng Phật, hoa lá, chim muông, tập trung chủ đề khuyến thiện trừ ác, giới thiệu hành trang các vị tổ Thiền tông, các đại sư, các cấp độ thăng hoa trên đường lên cõi Niết bàn. Du khách có thể vừa tụng niệm một lời cầu ước và tự mình quay Cối kinh.
Người xưa tin rằng, mỗi một vòng xoay của Cối kinh tương đương với 3.542.400 lần tụng niệm và phật pháp sẽ mau chóng được chứng quả (lời cầu nguyện sẽ thành hiện thực). Hiện nay, ở Việt Nam chỉ còn ba cây Cửu phẩm liên hoa ở ba ngôi chùa thuộc dòng Trúc Lâm: Bút Tháp (Bắc Ninh) chùa Phẩm và chùa Giám (Hải Dương).
Ngày nay, Bút Tháp không chỉ là niềm tự hào của nền kiến trúc, điêu khắc cổ của Việt Nam, mà còn là nơi cửa Phật linh thiêng luôn chào đón phật tử và du khách khắp mọi miền đất nước tìm về chiêm bái Phật. Mỗi người hành hương về đây đều tâm niệm cho cuộc sống thanh cao, nhân hậu, bác ái từ bi. Chùa Bút Tháp còn là điểm đến lý tưởng cho du khách nước ngoài khi đến thăm Việt Nam và khám phá miền đất Kinh Bắc cổ kính. Mỗi ngày, chùa Bút Tháp đón hàng trăm du khách nước ngoài, trong đó đông đảo nhất là du khách Pháp.
Trong cuốn Địa chí Hà Bắc xuất bản năm 1982 và cuốn sách Nghệ thuật Việt Nam (L’art vietnamien) của nhà nghiên cứu người Pháp L. Bezacier, xuất bản năm 1944 có nói về lịch sử hình thành ngôi chùa Bút Tháp. Theo các cuốn sách trên, chùa Bút Tháp có từ thời Trần, tức khoảng thế kỷ XIII. Cả hai cuốn sách đều đề cập việc Trạng nguyên Lý Đạo Tái (1254-1334) sau khi từ quan đã có thời gian về chùa Bút Tháp tu hành, lấy pháp danh là Huyền Quang.
Đến thế kỷ XVII, hoàng tộc triều Lê đóng góp tiền của tu sửa lại chùa Bút Tháp với quy mô rất lớn. Ở các giai đoạn sau, chùa tiếp tục được tu sửa nhỏ nhiều lần, nhưng về cơ bản, kiến trúc hiện nay chủ yếu của thế kỷ thứ XVII, gồm các hạng mục: tam quan, gác chuông, tiền đường, thiêu hương, tòa Thượng điện, tòa Tích thiện am, nhà trung, phủ thờ, hậu đường và hai dãy hành lang ở hai bên.
Chùa Bút Tháp còn có tên là Ninh Phúc Tự, nằm ở phía Tây thôn Bút Tháp xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh), cách trung tâm Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông.
Chùa Bút Tháp là ngôi chùa nổi tiếng vùng Kinh Bắc, có lịch sử gần 800 năm,
là điểm đến thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước.
Chùa Bút Tháp được tu sửa nhiều lần, nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc đã có từ thời Hậu Lê, khoảng thế kỷ XV-XVIII.
Tòa Tích thiện am là một trong những công trình có lối kiến trúc độc đáo của chùa Bút Tháp.
Tòa Thượng điện có phần móng làm bằng đá xanh. Hành lang bao quanh Thượng điện là các khối đá được chạm khắc tinh xảo.
Du khách say sưa ghi lại những hình ảnh kiến trúc độc đáo của chùa Bút Tháp.
Một điểm độc đáo khác của chùa Bút Tháp là nghệ thuật chạm khắc đá tinh xảo của các nghệ nhân dân gian. Tiêu biểu là hai công trình: hành lang tòa Thượng điện và tháp Báo nghiêm. Bao quanh Thượng điện cả 4 mặt là hành lang với một hàng lan can bằng đá xanh được chạm khắc rất điêu luyện các điển tích cổ như: “phượng vũ kỳ lân”, “song ngư hý nguyệt”, “cô lộ sơn lộc”, “tam dương triều nguyệt”, “tứ linh, tứ quý”, “lý ngư hoá long”, “tùng trúc đông thiên”.
Men theo lối hành lang Thượng điện, qua cây cầu đá du khách sẽ bắt gặp tòa Tích thiện am. Đây là kiến trúc đặc biệt nhất của chùa Bút Tháp. Toà này được kết cấu theo kiểu chồng diêm: tầng 1 gồm 5 gian, tầng 2 thu lại còn 3 gian, tầng ba thu lại còn 1 gian.
Toà Tích thiện am được dựng vào thế kỷ XVIII và đã được tu sửa nhiều lần. Trong Tích thiện am đặt Cửu phẩm liên hoa hay còn gọi là “Cối kinh”, đây là kiểu kiến trúc tiêu biểu của phái Mật Tông (bắt nguồn từ Tây Tạng, Trung Quốc). Cửu phẩm liên hoa là tháp gỗ 8 mặt, cao 7,8m, xếp 9 tầng theo kiểu tòa sen, thể hiện 9 kiếp tu của đức Thích Ca Mâu Ni. Chín tầng Cối kinh tạc tượng Phật, hoa lá, chim muông, tập trung chủ đề khuyến thiện trừ ác, giới thiệu hành trang các vị tổ Thiền tông, các đại sư, các cấp độ thăng hoa trên đường lên cõi Niết bàn. Du khách có thể vừa tụng niệm một lời cầu ước và tự mình quay Cối kinh.
Người xưa tin rằng, mỗi một vòng xoay của Cối kinh tương đương với 3.542.400 lần tụng niệm và phật pháp sẽ mau chóng được chứng quả (lời cầu nguyện sẽ thành hiện thực). Hiện nay, ở Việt Nam chỉ còn ba cây Cửu phẩm liên hoa ở ba ngôi chùa thuộc dòng Trúc Lâm: Bút Tháp (Bắc Ninh) chùa Phẩm và chùa Giám (Hải Dương).
Tượng “Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay” là bảo vật nổi tiếng nhất của chùa Bút Tháp. Pho tượng được tạc bằng gỗ quý, cao 3,7 mét, ngang 2,1 mét. Bức tượng được nghệ nhân Trương Thọ Nam hoàn thành vào năm Bính Thân (1656).
Phía sau tượng Phật Bà Quan Âm có 952 bàn tay, trên mỗi lòng bàn tay có khắc một con mắt đen dài.
Các bàn tay này được gắn thành 14 lớp từ trong ra ngoài, tạo thành vầng hào quang bao quanh tượng Phật Bà Quan Âm.
Các bức chạm khắc tượng gỗ ở chùa Bút Tháp được coi là hình mẫu tiêu biểu của nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ ở Việt Nam.
Bên trong tòa Tích thiện am đặt Cửu phẩm liên hoa làm bằng gỗ hình bát giác, gồm chín tầng, có thể xoay được.
Cầu đá nối liền Thượng điện với tòa Tích thiện am, gồm ba nhịp, hai bên lan can cầu có 6 bức tranh chạm khắc đá.
Tháp Báo nghiêm được ghép bằng đá xanh, không dùng vữa trát mạch. Trên tháp có 23 bức chạm khắc đá: 8 bức ở chân lan can, 8 bức ở tầng 1, 7 bức ở tầng 2, hai cột cửa tháp được trạm nổi hình rồng.
Tháp Báo nghiêm là công trình kiến trúc tiêu biểu của chùa Bút Tháp. Tháp được dựng vào thế kỷ XVII, gồm 5 tầng, có hình dáng như cây bút khổng lồ.
Các tác phẩm chạm khắc đá trên hành lang Thượng điện.
Bức tranh chạm khắc đá “hoa cúc”.
Những bức tranh chạm khắc đá ở chùa Bút Tháp rất độc đáo, các nét chạm nhìn bề ngoài thì ngẫu nhiên, tự do, nhưng hết sức chắt lọc, khái quát, làm nổi bật chủ thể.
Bức tranh chạm khắc đá “hoa sen”.
Thực hiện: Trần Hiếu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét