Đạo Cao Đài được thành lập năm 1926, nhưng trước đó vào năm 1920 trong một lần cầu cơ ông Ngô văn Chiêu đã gặp Cao Đài tiên ông. Từ thời điểm đó, ông Ngô văn Chiêu và nhóm bạn đã hình thành nhóm tu, dù chưa hình thành tư tưởng tôn giáo chính thức.
Thật bất ngờ, 13 năm trước khi ông Ngô văn Chiêu cầu cơ gặp Đức Cao Đài Tiên Ông, năm 1907 bên rạch Cái Khế, Cần Thơ đã có một đàn cơ cầu Tiên Phật. Phật dạy nghi thức thờ cúng, cho pháp danh các đạo hữu và từ đó lập nên chùa Quang Xuân. 4 năm sau, ngày 25 tháng 10 năm Tân Hợi 1911, đàn cơ đầu tiên lập nên phái Tiên Đàn được tổ chức tại chùa Quang Xuân, thần cơ giáng đàn đã ban kinh Phật làm nền tảng tu tiên cho phái.
Như vậy, phái Đàn Tiên Cái Khế đã tổ chức đàn cơ cầu tiên (gọi là đàn tiên) trước cả đạo Cao Đài. Thế nhưng thay vì phát triển thành một tôn giáo riêng như Cao Đài thì Đàn Tiên Cái Khế vẫn là một ngôi chùa theo Phật giáo, cho đến tận ngày nay.
Hiện nay Đàn Tiên Cái Khế vẫn còn, đặt tại chùa Hiệp Minh, cách chùa cũ Quang Xuân không xa. Chùa tọa lạc tại 97 Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ, trong chợ An Nghiệp (tên xưa là chợ Mít Nài).
Trong sách Danh thắng miền Nam, nhà văn Sơn Nam đã nhắc tới Đàn Tiên như sau: “Hồi những năm đầu của thế kỷ này (thế kỷ XX) Cần Thơ là nơi nổi danh với đạo tu tiên, cụ thể là việc cầu cơ. Thí dụ như đình Bình Thủy thờ ông Đinh Công Chánh, còn Đàn Tiên Cái Khế thì thỉnh mời chư Tiên về cho thi phú…”.
Dù chùa Hiệp Minh vẫn chịu sự quản lý của Giáo hội Phật giáo TP Cần Thơ, nhưng những quy cách hoạt động của chùa mang một nét riêng, khác hẳn những ngôi chùa khác.
Đây là ông Nguyễn văn Chiểu, người trụ trì chùa. Mặc dù là "nhà sư trụ trì" nhưng ông Chiểu không hề cạo đầu, và vẫn mặc áo sơ mi, quần tây khi tiếp khách ở chùa.
Về danh xưng, chùa cũng không gọi người trụ trì là sư trụ trì, mà gọi là trưởng ban hộ tự.
Đạo phục của phật tử cũng không giống các chùa khác, mà có nét tương tự như đạo phục của Cao Đài.
Cảnh trí chùa Hiệp Minh hòa quyện giữa thiên nhiên và tôn giáo, phảng phất nét thần tiên, là một chốn viếng thăm rất nên thơ. (Xem thêm ở đây: Khám phá di tích Đàn Tiên)
Là một ngôi chùa cổ kính, và có lẽ là có một không hai ở Việt Nam, chùa Hiệp Minh - hay Đàn Tiên Cái Khế là nơi đáng để chúng ta viếng thăm để khám phá những điều lạ, và để lòng lắng đọng hướng về Phật pháp.
Thật bất ngờ, 13 năm trước khi ông Ngô văn Chiêu cầu cơ gặp Đức Cao Đài Tiên Ông, năm 1907 bên rạch Cái Khế, Cần Thơ đã có một đàn cơ cầu Tiên Phật. Phật dạy nghi thức thờ cúng, cho pháp danh các đạo hữu và từ đó lập nên chùa Quang Xuân. 4 năm sau, ngày 25 tháng 10 năm Tân Hợi 1911, đàn cơ đầu tiên lập nên phái Tiên Đàn được tổ chức tại chùa Quang Xuân, thần cơ giáng đàn đã ban kinh Phật làm nền tảng tu tiên cho phái.
Như vậy, phái Đàn Tiên Cái Khế đã tổ chức đàn cơ cầu tiên (gọi là đàn tiên) trước cả đạo Cao Đài. Thế nhưng thay vì phát triển thành một tôn giáo riêng như Cao Đài thì Đàn Tiên Cái Khế vẫn là một ngôi chùa theo Phật giáo, cho đến tận ngày nay.
Hiện nay Đàn Tiên Cái Khế vẫn còn, đặt tại chùa Hiệp Minh, cách chùa cũ Quang Xuân không xa. Chùa tọa lạc tại 97 Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ, trong chợ An Nghiệp (tên xưa là chợ Mít Nài).
Bàn Tiên trưởng trong chùa Hiệp Minh
Non bộ trong chùa
Đây là ông Nguyễn văn Chiểu, người trụ trì chùa. Mặc dù là "nhà sư trụ trì" nhưng ông Chiểu không hề cạo đầu, và vẫn mặc áo sơ mi, quần tây khi tiếp khách ở chùa.
Đây là Ngọc Cơ, vật thiêng dùng để cầu cơ
Đạo phục của phật tử cũng không giống các chùa khác, mà có nét tương tự như đạo phục của Cao Đài.
Ảnh: Lâm văn Sơn
Ban thờ ở chùa cũng thờ Phật như các chùa khác
Là một ngôi chùa cổ kính, và có lẽ là có một không hai ở Việt Nam, chùa Hiệp Minh - hay Đàn Tiên Cái Khế là nơi đáng để chúng ta viếng thăm để khám phá những điều lạ, và để lòng lắng đọng hướng về Phật pháp.
Phạm Hoài Nhân
(Tư liệu từ sách Lược sử chùa Hiệp Minh và lời kể của anh Lâm văn Sơn. Ảnh: Phạm Hoài Nhân, Phạm Đắc Nhân)
Khám phá di tích Đàn Tiên
Sân Tiên trưởng chùa Hiệp Minh.
Đến chùa Đàn Tiên (chùa Hiệp Minh số 97, đường Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, TP. Cần Thơ - nơi còn lưu giữ nguyên vẹn gốc tích Tiên đàn), trước hết du khách sẽ đi qua cổng tam quan. Tam quan vẫn còn giữ được cánh cổng từ xưa làm bằng sắt tròn rất chắc chắn (do Sở Công Chánh thời Pháp thiết kế) gồm hai cánh kéo vào. Cổng được tôn tạo thành tam quan xây lại bằng gạch, vòm cong, mái đúc vào tháng 6 năm 2009. Cổng được trang trí bằng hoa văn họa tiết theo kiến trúc Phật giáo. Mặt ngoài và trong của cổng chính lẫn cổng phụ đều có câu đối ngụ ý tu tâm dưỡng tánh hướng về Phật pháp và Tiên đàn.
Từ bên kia đường Huỳnh Thúc Kháng nhìn sang thấy cột phướn vươn cao, cổng và lối vào chùa bị che khuất bởi dãy nhà ven bờ sông.
Ở cổng chính bên ngoài có cẩn hai câu đối:
Hiệp tánh lưu truyền tâm trí tuệ
Minh tâm gìn giữ đạo từ bi.
Hiệp tâm học hỏi muôn lời kệ
Minh tánh trau giồi vạn ý kinh.
Đàn lâm đệ tử thành tâm nguyện
Tiên đạo chúng sanh thiện ý nguyền.
Bồng lai tạm kiểng bền tâm giữ
Đệ tử Tiên Đàn gắng chí tu.
Cột phướn cao 25 mét được xây dựng năm 1935 trước sân chùa Hiệp Minh.
Tương truyền rằng, một hôm, xe hơi riêng của ông An đang trên đường đi công tác bỗng dưng gặp một con kỳ đà to lớn bò ra cản đầu xe. Cùng lúc đó, phía trước đường, nơi xe ông sắp đi tới có xe gặp tai nạn chết người. Ông An về nhà kể cho mẹ nghe. Bà cho đây là một ‘điềm’ tốt lành, giúp cho con bà thoát nạn. Bà dạy ông Trần Quang An về chùa sám hối và nguyện cúng cột phướn trước sân chùa để tạ ơn cứu nạn.
Thời điểm này, với chiều cao 25 mét đứng sừng sững giữa không gian mênh mông của vùng rạch Cái Khế, cột phướn chùa Hiệp Minh như một kỳ tích về mặt kiến trúc và mỹ thuật. Cột được đúc bằng bê tông cốt thép hình bát giác, vòng tròn chân cột vừa cả hai người ôm. Đỉnh cột có cán treo phướn được kéo lên bằng dây cáp với ròng rọc thép. Lá phướn dài hơn 8 mét, rộng gần 60cm cột vào đầu phướn bằng gỗ được chạm trỗ rất công phu. Thân phướn bằng vải có viết cân đối dòng chữ Nho “Nam mô A Di Đà Phật - Đại phóng hào quang - Chứng minh”.
Vào dịp tết Nguyên Đán hàng năm, người ta “thượng phướn” từ ngày 30 tháng Chạp và “hạ phướn” vào hết ngày rằm tháng Giêng năm mới. Riêng những ngày đại lễ Vu Lan hàng năm, phướn được treo từ mồng Một đến hết tháng Bảy. Đến năm 2009, cột phướn được tôn tạo về mỹ thuật, làm thêm mô hình tòa sen sơn nhũ vàng ở chân cột; thân cột cao, thẳng vút được ốp bằng cánh sen nhũ vàng suốt lên tới đỉnh. Đỉnh cột được tạo hình đầu rồng cũng sơn nhũ vàng.
Đi thẳng vào trong chừng mười mét, du khách đến với hậu liêu. Trước hậu liêu là tượng Phật Quan Âm lộ thiên. Hậu liêu có 3 gian rộng và thoáng. Chính giữa là hương án thờ Phật Quan Âm bằng gỗ quý được chạm trổ công phu và thếp vàng. Phần đỉnh mái hậu liêu có tượng rồng chầu và xa luân tám cánh nhũ vàng. Hậu liêu là nơi thường xuyên tổ chức lễ cầu an, cầu siêu. Đặc biệt trong lễ tạ ơn Tiên Phật và Tiền vãng vào đêm 16 tháng Bảy (âm lịch) hàng năm có lễ dâng vật phẩm xôi, chè, bánh xếp, rượu, trà… với các bài phụng đặc trưng của Đàn Tiên.
Sau hậu liêu là sân Tiên trưởng. Sân Tiên trưởng chùa Hiệp Minh là một quần thể kiến trúc gồm sân kiểng và bàn Tiên trưởng. Khu sân có các cây kiểng quý hiếm có tuổi thọ đến trăm năm như kim quít, tùng, bách, sộp, khế, liễu… tô điểm cho vẻ thanh tao siêu thoát tựa chốn tiên bồng nên còn được gọi là ‘Bồng lai tạm kiểng’. Bàn Tiên trưởng được bày trí ngay trung tâm sân. Bàn Tiên trưởng gồm 1 bàn và 2 trường kỷ đúc bằng xi măng, mặt cẩn gạch men (mua từ bên Pháp) được đặt trên một bục cao gần mét. Bàn Tiên trưởng là nghi thờ các vị Thánh Tiên về ngọan cảnh và chứng đàn.
Tại đây, hàng năm đều tổ chức cúng ngoài trời đọc kinh Tiên Đàn. Hiện chùa Hiệp Minh còn giữ bản gốc kinh Tiên Đàn bằng gỗ trầm khắc chữ Hán trên hai mặt. Ngoài ra còn rất nhiều tài liệu quý về thuốc trị bệnh cứu người vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
Giữa Sân Tiên trưởng và chánh điện là hòn non bộ. Chùa Hiệp Minh có hai hòn non bộ. Một trước chánh điện và một sau lưng chánh điện. Hòn non bộ là một kiến trúc mỹ thuật độc đáo được xây dựng kiên cố vào năm 1927. Đá trang trí được mang về từ Nha Trang. Nhóm kỹ thuật làm hòn non bộ là nghệ nhân từ Gò Công. Hòn non bộ cao hơn 6 mét nằm gọn trong hồ nước được xây dựng bằng đá tảng. Hòn non bộ như một hòn núi nhỏ trên có nhiều lối đi ngoằn ngoèo theo triền núi với những kiểng chùa thanh vắng, những hang động và thú rừng… Hòn non bộ như một cảnh tiên thoát tục của cõi thanh tịnh, vô vi.
Thời điểm này, với chiều cao 25 mét đứng sừng sững giữa không gian mênh mông của vùng rạch Cái Khế, cột phướn chùa Hiệp Minh như một kỳ tích về mặt kiến trúc và mỹ thuật. Cột được đúc bằng bê tông cốt thép hình bát giác, vòng tròn chân cột vừa cả hai người ôm. Đỉnh cột có cán treo phướn được kéo lên bằng dây cáp với ròng rọc thép. Lá phướn dài hơn 8 mét, rộng gần 60cm cột vào đầu phướn bằng gỗ được chạm trỗ rất công phu. Thân phướn bằng vải có viết cân đối dòng chữ Nho “Nam mô A Di Đà Phật - Đại phóng hào quang - Chứng minh”.
Vào dịp tết Nguyên Đán hàng năm, người ta “thượng phướn” từ ngày 30 tháng Chạp và “hạ phướn” vào hết ngày rằm tháng Giêng năm mới. Riêng những ngày đại lễ Vu Lan hàng năm, phướn được treo từ mồng Một đến hết tháng Bảy. Đến năm 2009, cột phướn được tôn tạo về mỹ thuật, làm thêm mô hình tòa sen sơn nhũ vàng ở chân cột; thân cột cao, thẳng vút được ốp bằng cánh sen nhũ vàng suốt lên tới đỉnh. Đỉnh cột được tạo hình đầu rồng cũng sơn nhũ vàng.
Đi thẳng vào trong chừng mười mét, du khách đến với hậu liêu. Trước hậu liêu là tượng Phật Quan Âm lộ thiên. Hậu liêu có 3 gian rộng và thoáng. Chính giữa là hương án thờ Phật Quan Âm bằng gỗ quý được chạm trổ công phu và thếp vàng. Phần đỉnh mái hậu liêu có tượng rồng chầu và xa luân tám cánh nhũ vàng. Hậu liêu là nơi thường xuyên tổ chức lễ cầu an, cầu siêu. Đặc biệt trong lễ tạ ơn Tiên Phật và Tiền vãng vào đêm 16 tháng Bảy (âm lịch) hàng năm có lễ dâng vật phẩm xôi, chè, bánh xếp, rượu, trà… với các bài phụng đặc trưng của Đàn Tiên.
Sau hậu liêu là sân Tiên trưởng. Sân Tiên trưởng chùa Hiệp Minh là một quần thể kiến trúc gồm sân kiểng và bàn Tiên trưởng. Khu sân có các cây kiểng quý hiếm có tuổi thọ đến trăm năm như kim quít, tùng, bách, sộp, khế, liễu… tô điểm cho vẻ thanh tao siêu thoát tựa chốn tiên bồng nên còn được gọi là ‘Bồng lai tạm kiểng’. Bàn Tiên trưởng được bày trí ngay trung tâm sân. Bàn Tiên trưởng gồm 1 bàn và 2 trường kỷ đúc bằng xi măng, mặt cẩn gạch men (mua từ bên Pháp) được đặt trên một bục cao gần mét. Bàn Tiên trưởng là nghi thờ các vị Thánh Tiên về ngọan cảnh và chứng đàn.
Tại đây, hàng năm đều tổ chức cúng ngoài trời đọc kinh Tiên Đàn. Hiện chùa Hiệp Minh còn giữ bản gốc kinh Tiên Đàn bằng gỗ trầm khắc chữ Hán trên hai mặt. Ngoài ra còn rất nhiều tài liệu quý về thuốc trị bệnh cứu người vẫn còn lưu giữ đến ngày nay.
Giữa Sân Tiên trưởng và chánh điện là hòn non bộ. Chùa Hiệp Minh có hai hòn non bộ. Một trước chánh điện và một sau lưng chánh điện. Hòn non bộ là một kiến trúc mỹ thuật độc đáo được xây dựng kiên cố vào năm 1927. Đá trang trí được mang về từ Nha Trang. Nhóm kỹ thuật làm hòn non bộ là nghệ nhân từ Gò Công. Hòn non bộ cao hơn 6 mét nằm gọn trong hồ nước được xây dựng bằng đá tảng. Hòn non bộ như một hòn núi nhỏ trên có nhiều lối đi ngoằn ngoèo theo triền núi với những kiểng chùa thanh vắng, những hang động và thú rừng… Hòn non bộ như một cảnh tiên thoát tục của cõi thanh tịnh, vô vi.
Một lễ cúng có nghi thức kinh hành ở chùa Hiệp Minh. Các vị bậc Tam, Tứ diệu cầm phang Phật đi vòng chung quanh bên trong chánh điện.
Chánh điện chùa Hiệp Minh được xây trên nền gạch cao 1 mét, chiều dài khoảng 40 mét, rộng 15 mét, theo hướng đông-tây, tường gạch mái ngói có lợp trần; đã được tôn tạo vào các năm 2003, 2009 với nền gạch men sáng sủa, các nghi thờ, các bức hoành phi liễn đối bằng gỗ mun chạm khắc tỉ mỉ và được sơn son thếp vàng. trên nóc được đúc hình rồng trang trí hoa văn, hoạ tiết và xa luân tượng trưng cho bát chánh đạo.
Chánh điện được chia làm hai phần thờ phụng. Phần phía trên chánh điện được thiết kế các nghi thờ Phật Thích Ca, Ngọc Hoàng Thượng đế, Thập Điện Minh vương. Phiá dưới chánh điện thờ Phật Dược Sư, Công Đồng Vương Thiên sứ, và bàn ở giữa thờ hai vị tổ sư là Từ Đạo Hạnh (tức Việt Nam Từ Đại Công Vương Bồ Tát) và Nguyễn Giác Hải (tức Việt Nam Nguyễn Đại Công Vương Bồ Tát). Đây là hai vị bồ tát đã giáng đàn dạy đạo ngay từ những ngày đàn cơ đầu tiên tại hai chùa Quang Xuân và Hiệp Minh. Các hương án khác thờ các bậc tiền vãng Đàn Tiên (tiền vãng là những người có công với hai chùa Quang Xuân và Hiệp Minh) và bàn thờ Sứ Giả Tịnh đàn.
Bàn Sám chủ là vị chủ lễ đặt giữa gian và đặt trước nghi thờ Phật. Phiá đối diện sau lưng có Bửu Pháp tòa là đôn ngồi chứng minh của pháp chủ chánh sám trong những ngày có lễ cúng quan trọng.
Chánh điện được chia làm hai phần thờ phụng. Phần phía trên chánh điện được thiết kế các nghi thờ Phật Thích Ca, Ngọc Hoàng Thượng đế, Thập Điện Minh vương. Phiá dưới chánh điện thờ Phật Dược Sư, Công Đồng Vương Thiên sứ, và bàn ở giữa thờ hai vị tổ sư là Từ Đạo Hạnh (tức Việt Nam Từ Đại Công Vương Bồ Tát) và Nguyễn Giác Hải (tức Việt Nam Nguyễn Đại Công Vương Bồ Tát). Đây là hai vị bồ tát đã giáng đàn dạy đạo ngay từ những ngày đàn cơ đầu tiên tại hai chùa Quang Xuân và Hiệp Minh. Các hương án khác thờ các bậc tiền vãng Đàn Tiên (tiền vãng là những người có công với hai chùa Quang Xuân và Hiệp Minh) và bàn thờ Sứ Giả Tịnh đàn.
Bàn Sám chủ là vị chủ lễ đặt giữa gian và đặt trước nghi thờ Phật. Phiá đối diện sau lưng có Bửu Pháp tòa là đôn ngồi chứng minh của pháp chủ chánh sám trong những ngày có lễ cúng quan trọng.
Các Phật tử mới quy y và Phật tử bậc Nhứt, Nhị diệu mặc áo tràng màu trắng.
Phật tử của chùa Đàn Tiên đều mặc áo tràng toàn màu trắng. Bên trong cũng là y phục màu trắng, trên đầu đội khăn màu đen có giắt hoa tươi. Bậc tam diệu, tứ diệu cũng mặc y phục màu trắng bên trong, bên ngoài là áo tràng màu vàng, trên đầu đội khăn màu vàng có giắt hoa tươi.
Ngoài ra còn có cấm phòng là nơi các dành cho các đệ tử của chùa nhập thất luyện đạo, trai đường, và bửu tháp…
Chùa Hiệp Minh được gọi là Đàn Tiên vì ngay lúc mới thành lập, các vị trí thức nhân sĩ và những người sáng lập chùa thường tổ chức lập đàn cầu cơ. Các vị Đại Tiên giáng đàn trong đó có Lý Thái Bạch, Trần Đoàn đàm luận thi văn với các bậc túc nho đường thời.
Nhà văn Sơn Nam, trong sách 'Danh thắng Miền Nam', đã viết: “Hồi những năm đầu của thế kỷ này (thế kỷ XX) Cần Thơ là nơi nổi danh với đạo tu tiên, cụ thể là việc cầu cơ. Thí dụ như đình Bình Thủy thờ ông Đinh Công Chánh, còn Đàn Tiên Cái Khế thì thỉnh mời chư Tiên về cho thi phú…”.
Ngoài ra còn có cấm phòng là nơi các dành cho các đệ tử của chùa nhập thất luyện đạo, trai đường, và bửu tháp…
Chùa Hiệp Minh được gọi là Đàn Tiên vì ngay lúc mới thành lập, các vị trí thức nhân sĩ và những người sáng lập chùa thường tổ chức lập đàn cầu cơ. Các vị Đại Tiên giáng đàn trong đó có Lý Thái Bạch, Trần Đoàn đàm luận thi văn với các bậc túc nho đường thời.
Nhà văn Sơn Nam, trong sách 'Danh thắng Miền Nam', đã viết: “Hồi những năm đầu của thế kỷ này (thế kỷ XX) Cần Thơ là nơi nổi danh với đạo tu tiên, cụ thể là việc cầu cơ. Thí dụ như đình Bình Thủy thờ ông Đinh Công Chánh, còn Đàn Tiên Cái Khế thì thỉnh mời chư Tiên về cho thi phú…”.
Thất trùng hàng thọ bao quanh chánh điện chùa Hiệp Minh với hoa kiểng bốn mùa xanh tươi.
Cảnh trí của chùa Hiệp Minh là vẻ đẹp hài hòa giữa kiến trúc tôn giáo với thiên nhiên, tạo nên cảnh quan tĩnh mịch với những giai thoại tiên thiên. Với vẻ đẹp tự nhiên vừa trầm mặc thoát tục, vừa thanh tao thi vị Đàn Tiên một thời gắn với tuổi thanh xuân của các cựu học sinh của vùng nhất là học sinh trường Phan Thanh Giản, trường Đoàn Thị Điểm. Đàn Tiên Cái Khế được ghi chép trong sách ‘Cần Thơ xưa và nay’ của tác giả Huỳnh Minh, được nhiều người biết đến như một địa chỉ thiêng liêng, nơi bồng lai tiên cảnh của một thời kỳ.
Chùa Hiệp Minh (hay Đàn Tiên Cái Khế) dù trải qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm nhưng vẫn giữ được nghi thức tôn giáo truyền thống và khung cảnh yên tĩnh, tôn nghiêm cho đến nay. Với lịch sử trên trăm năm, chùa Hiệp Minh như một di sản văn hoá, với thất trùng hàng thọ như một mảng xanh giữa lòng thành phố giúp con người tịnh tâm trước dòng đời bất tịnh.
Chùa Hiệp Minh (hay Đàn Tiên Cái Khế) dù trải qua bao nhiêu năm tháng thăng trầm nhưng vẫn giữ được nghi thức tôn giáo truyền thống và khung cảnh yên tĩnh, tôn nghiêm cho đến nay. Với lịch sử trên trăm năm, chùa Hiệp Minh như một di sản văn hoá, với thất trùng hàng thọ như một mảng xanh giữa lòng thành phố giúp con người tịnh tâm trước dòng đời bất tịnh.
Chùa Đàn Tiên tính đến nay cũng đã trên 100 tuổi (1911-2013) cũng là một trong những điểm đến du lịch viếng chùa, lễ Phật, tìm hiểu gốc tích Tiên Đàn ở Cần Thơ trong tương lai gần khi chợ An Nghiệp nằm trên đường Huỳnh Thúc Kháng hiện nay được sắp xếp chỉnh trang lại thuận tiện cho việc đi lại cho du khách gần xa.
Lâm văn Sơn
Đàn Tiên Cái Khế - di tích đạo tu tiên xưa ở Cần Thơ
Một lễ cúng tại sân Tiên Trưởng chùa Hiệp Minh.
Cách đây hơn trăm năm, khi đời sống cư dân vùng Phong Dinh, Cần Thơ còn thiếu thốn trăm bề, mỗi khi đau ốm người dân chỉ biết dựa vào những phương thuốc gia truyền, dùng cây cỏ chạy chữa. Kiến thức về y học, phòng và chữa bệnh gần như là con số không. Gặp chứng nan y, người ta thường hay tìm đến những sức mạnh thần bí, tâm linh để cầu sự bình an.
Sự thật thì cũng đã có rất nhiều trường hợp nhờ hiệu ứng của yếu tố tâm lý và đức tin vào tâm linh giúp cho nhiều người khỏi bệnh.
Người xưa kể lại, đã có những cảnh tượng hãi hùng trong một đêm hoảng loạn vì bệnh dịch tả hoành hành, người ta phải tất tả đốt đuốc chạy ngược xuôi, đánh mõ cầu cứu liên hồi, để cầu mong tìm được thuốc thang cứu người. Có khi mỗi buổi sáng, xóm làng thất thần nghe tin có đến hàng chục người chết.
Rạch Cái Khế, quận Ninh Kiều, Cần Thơ.
Ngay ở khu vực quanh rạch Cái Khế, Cần Thơ và các vùng phụ cận, tuy là gần thị tứ nhưng phương tiện giao thông vô cùng trắc trở. Kênh mương chằng chịt, đường đất thì hoang vu, thiếu ánh sáng…
Những ngôi chùa ra đời vì nhu cầu tế độ
Chùa Minh Sư (hay còn gọi là Đức Tế Phật đường) tức Nam Nhã đường hiện nay tại làng Bình Thủy, thành phố Cần Thơ được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, do Lão Thái Nguyễn Giác Duyên lập nên. Vị trụ trì chùa lúc đó là Pháp sư Kinh thường họp mặt một số thân hào nhân sĩ, trí thức giỏi chữ tìm thú vui thanh tao như đánh cờ, uống rượu, ngâm thơ, xướng họa và thỉnh tiên. Việc lập đàn cầu cơ thỉnh tiên chủ yếu là để dạy đạo và cho thuốc chữa bệnh, cứu người.
Ông Phạm Ngọc Ngưu người tại Long Xuyên thường hay lui tới các nơi tổ chức thỉnh tiên này tại Bình Thủy và tại Long Xuyên chủ yếu tìm hiểu về đàn cơ và nhất là xin thuốc chữa bệnh nan y cho người nhà. Đàn Cơ là một buổi lễ cầu cơ thỉnh Phật Tiên Thánh Thần giáng đàn qua hình thức cơ bút. Ông quyết định xây dựng một ngôi chùa của riêng mình để cho bà con dòng họ và người dân quanh vùng có nơi tu học và nhất là cầu xin thuốc chữa bệnh.
Những ngôi chùa ra đời vì nhu cầu tế độ
Chùa Minh Sư (hay còn gọi là Đức Tế Phật đường) tức Nam Nhã đường hiện nay tại làng Bình Thủy, thành phố Cần Thơ được xây dựng vào đầu thế kỷ XX, do Lão Thái Nguyễn Giác Duyên lập nên. Vị trụ trì chùa lúc đó là Pháp sư Kinh thường họp mặt một số thân hào nhân sĩ, trí thức giỏi chữ tìm thú vui thanh tao như đánh cờ, uống rượu, ngâm thơ, xướng họa và thỉnh tiên. Việc lập đàn cầu cơ thỉnh tiên chủ yếu là để dạy đạo và cho thuốc chữa bệnh, cứu người.
Ông Phạm Ngọc Ngưu người tại Long Xuyên thường hay lui tới các nơi tổ chức thỉnh tiên này tại Bình Thủy và tại Long Xuyên chủ yếu tìm hiểu về đàn cơ và nhất là xin thuốc chữa bệnh nan y cho người nhà. Đàn Cơ là một buổi lễ cầu cơ thỉnh Phật Tiên Thánh Thần giáng đàn qua hình thức cơ bút. Ông quyết định xây dựng một ngôi chùa của riêng mình để cho bà con dòng họ và người dân quanh vùng có nơi tu học và nhất là cầu xin thuốc chữa bệnh.
Cầu Nhị Kiều trên đường Trần Hưng Đạo, bắc qua rạch Cái Khế; trước đây được gọi là “Cầu Đôi Mới”.
Vào thời gian đó tại thị xã Cần Thơ chỉ mới có hai ngôi chùa thờ Phật là chùa Thới Long của gia đình điền chủ trí thức Lâm Văn Phận (thầy giáo Phận, thân phụ bà Lâm Thị Phấn, hình mẫu nhân vật chính của phim Người đẹp Tây Đô) sáng lập ở gần cầu Đôi Mới (tức cầu Nhị Kiều hiện nay) và chùa thứ hai là chùa Cây Bàng trong khu chợ Cả Đài.
Ban đầu, ông Phạm Ngọc Ngưu xây dựng một đàn tế để thỉnh Phật, thỉnh Tiên. Đàn có tên là chùa Quang Xuân, được xây dựng ngay sau khu vườn nhà của ông ở số 89/16 đường Paul Emery nay là đường Huỳnh Thúc Kháng. Đàn được xây dựng đơn sơ bằng cây ván, lợp lá với sàn gỗ cao, có thang lên xuống hai bên. Kiến trúc đàn tế thời kỳ đó tuy giản đơn, mộc mạc nhưng tôn nghiêm, thanh tịnh, chủ yếu là để tổ chức đàn cơ thỉnh Phật, thỉnh Tiên.
Ban đầu, ông Phạm Ngọc Ngưu xây dựng một đàn tế để thỉnh Phật, thỉnh Tiên. Đàn có tên là chùa Quang Xuân, được xây dựng ngay sau khu vườn nhà của ông ở số 89/16 đường Paul Emery nay là đường Huỳnh Thúc Kháng. Đàn được xây dựng đơn sơ bằng cây ván, lợp lá với sàn gỗ cao, có thang lên xuống hai bên. Kiến trúc đàn tế thời kỳ đó tuy giản đơn, mộc mạc nhưng tôn nghiêm, thanh tịnh, chủ yếu là để tổ chức đàn cơ thỉnh Phật, thỉnh Tiên.
Tháp nhốt quỷ bên phải chánh điện chùa Hiệp Minh. Truyền thuyết xưa kể rằng, trong vùng có người bị quỷ nhập, vị pháp sư dùng roi dâu để trục quỷ ra khỏi người bệnh. Quỷ lại tìm đến nhập vào người khác cũng ở trong vùng, vị pháp sư dùng ấn chú bắt và nhốt vào ngôi tháp trong sân chùa để ngày ngày quỷ nghe kinh Phật mà tu niệm.
Đàn cơ đầu tiên được tổ chức vào đêm mồng Một tháng Bảy năm Đinh Mùi (1907).
Theo năm tháng, chùa được tu bổ và tôn tạo dần vào các năm 1910 và 1930 với tường gạch, mái ngói, nền gạch bông thoáng mát rộng rãi. Chùa Quang Xuân chính là cội nguồn của đàn Tiên ở Cần Thơ.
Trong vùng có ông Phan Thông Lý, thường gọi là ông Cả Lý, cũng sống tại ven bờ rạch Cái Khế thuộc làng Thới Bình, Cần Thơ là người bên vợ của ông Phạm Ngọc Ngưu. Ông Cả Lý có người con út tên là Phan Thông Sung (Chín Sung) mắc bệnh á khẩu cứng hàm trầm trọng. Trong thời kỳ đó, bệnh như thế này là hết phương cứu chữa cho dù gia đình đã tìm thầy, chạy thuốc khắp nơi. Trong hoàn cảnh cùng kiệt đó, có người láng giềng đến mách bảo với ông bà Cả Lý nên đến chùa Quang Xuân cầu đàn xin thuốc chữa bệnh cho con. Nghe vậy, ông bà liền đến chùa Quang Xuân xin sám hối và tâm thành khẩn cầu tổ chức đàn cơ để xin thuốc. Ơn trên đã không phụ lòng thành của ông bà, ban thuốc chữa bệnh, ông Chín Sung dần khỏi bệnh.
Nhà ông bà Cả Lý tạ ơn trên bằng việc hiến cúng 6.000 mét vuông đất để cất thêm một ngôi chùa mới cho chính dòng họ mình, đó là chùa Chánh Minh. Phần đất này, mặt sau giáp ranh chùa Quang Xuân, cách con mương chưa đầy 3 mét, nhưng phía mặt tiền đường Huỳnh Thúc Kháng thì cách nhau đến 200 mét.
Giữa năm Tân Hợi (1911) chùa Chánh Minh được dựng đơn sơ bằng cây ván, lợp lá, sàn gỗ cao, có thang lên xuống. Mãi đến năm 1916, chùa Chánh Minh mới được xây dựng trên phần đất hiến của ông Cả Lý theo đơn xin phép xây đàn và xin phép cúng đề ngày 8 tháng 8 nằm 1916 bởi quan tổng Định Bảo và tỉnh Cần Thơ thông qua hội đồng hương chức làng Thới Bình.
Hậu liêu và sân sau chùa Hiệp Minh.
Về sau, chùa Chánh Minh được đổi tên là chùa Hiệp Minh và được xây dựng lại năm 1932 bằng vật liệu kiên cố và được tôn tạo vào các năm 1942, 2003, 2009… Chùa Hiệp Minh hay đàn tiên Cái Khế là cái nhánh sinh ra từ chùa gốc là chùa Quang Xuân.
Bài viết này nói về chùa Hiệp Minh trong cụm chùa gọi là Đàn Tiên (gồm chùa Quang Xuân và chùa Hiệp Minh) vì chùa Hiệp Minh là nơi duy nhất còn lưu giữ nguyên vẹn gốc tích Tiên đàn. Chùa Hiệp Minh ở địa chỉ số 97 đường Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, thành phố Cần Thơ. Chùa Đàn Tiên, vườn Thầy Cầu, chợ Tham Tướng, dinh Ông Lớn… là các địa chỉ cùng thời với tên các con đường xưa mang tên Hàng Dừa, Hàng Dương, Hàng Bã Đậu…
Con đường Huỳnh Thúc Kháng hay chợ An Nghiệp ngày nay, vốn xưa kia là đường Cống Quỳnh với chợ Mít Nài. Cái tên Mít Nài được gọi đến nay do vùng này ngày xưa có trồng rất nhiều cây mít nài. Cây mít nài cao, to như cây sa kê. Trái thì trông giống trái mít nghệ hay mít tố nữ nhưng bên trong không có múi mít, chỉ toàn là hột. Hột mít nài béo, ngon hơn hột mít thường. Nhưng muốn ăn hột mít nài, người ta phải chờ cho đến khi trái mít nài chín, nó tự rụng xuống, hột văng ra. Lúc đó hột mít nài mới thật sự ngon. Vì vậy mà ngày xưa người vùng này trồng nhiều mít nài và dùng hạt mít nài để nấu các món ăn như ragu, bò kho…
Bài viết này nói về chùa Hiệp Minh trong cụm chùa gọi là Đàn Tiên (gồm chùa Quang Xuân và chùa Hiệp Minh) vì chùa Hiệp Minh là nơi duy nhất còn lưu giữ nguyên vẹn gốc tích Tiên đàn. Chùa Hiệp Minh ở địa chỉ số 97 đường Huỳnh Thúc Kháng, phường An Nghiệp, thành phố Cần Thơ. Chùa Đàn Tiên, vườn Thầy Cầu, chợ Tham Tướng, dinh Ông Lớn… là các địa chỉ cùng thời với tên các con đường xưa mang tên Hàng Dừa, Hàng Dương, Hàng Bã Đậu…
Con đường Huỳnh Thúc Kháng hay chợ An Nghiệp ngày nay, vốn xưa kia là đường Cống Quỳnh với chợ Mít Nài. Cái tên Mít Nài được gọi đến nay do vùng này ngày xưa có trồng rất nhiều cây mít nài. Cây mít nài cao, to như cây sa kê. Trái thì trông giống trái mít nghệ hay mít tố nữ nhưng bên trong không có múi mít, chỉ toàn là hột. Hột mít nài béo, ngon hơn hột mít thường. Nhưng muốn ăn hột mít nài, người ta phải chờ cho đến khi trái mít nài chín, nó tự rụng xuống, hột văng ra. Lúc đó hột mít nài mới thật sự ngon. Vì vậy mà ngày xưa người vùng này trồng nhiều mít nài và dùng hạt mít nài để nấu các món ăn như ragu, bò kho…
Rạch Cái Khế và dãy nhà ven bờ rạch quay mặt vào đường Cống Quỳnh xưa, nay là đường Huỳnh Thúc Kháng, nơi họp chợ Mít Nài.
Chợ Mít Nài có bán nhiều loại rau vườn (rau tạp tàng), cá đồng (cá tép đánh bắt tự nhiên) và các loại cây lá thuốc trị bệnh.
Trái mít nài khi chín, rụng, rơi xuống đất. Hột mít văng ra sẽ ngon hơn khi còn trên cây và được dùng để nấu các món ăn truyền thống.
Lâm văn Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét