Chùa tọa lạc ở 259 quốc lộ 22, thị trấn Trảng Bàng, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh. ĐT: 066.880093. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Phước Lưu
Chùa trước đây là am Bà Đồng, đến năm 1900, hình thành chùa Bà Đồng. Tổ Trừng Lực thuộc chi phái Thiền Liễu Quán đã tổ chức xây lại ngôi chùa và đặt tên Phước Lưu.
Chùa đã được trùng tu nhiều lần vào các năm 1945, 1946, 1968, 1975, 1990.
Chánh điện được bài trí trang nghiêm. Chùa còn bảo tồn nhiều pho tượng cổ, như bộ tượng Di Đà Tam Tôn bằng gốm, thếp vàng; bộ tượng Thập bát La hán; bộ tượng Thập Điện Minh Vương và các bao lam với nét chạm khắc tinh xảo.
Trụ trì chùa hiện nay là thầy Thích Quảng Chí.
Điện Phật
Tượng Minh Vương
Tượng Hộ Pháp
Vườn Tháp Mộ
Tượng Bồ Tát Quan Âm
Tượng đức Phật Thích Ca
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Chuyện về các bà Tổ sáng tạo Phước Lưu cổ tự
Bà Trần Thị Nên là mẹ của ông Mai Văn Lực, sau này là Hoà thượng Trừng Lực, người được coi là Tổ đời thứ nhất của Phước Lưu cổ tự. Một người phụ nữ khác, được coi là thuộc nhóm “Tổ sáng tạo” chùa Phước Lưu, chính là sư cô Diệu Thiện.
Dân gian thường gọi những người khai sáng lập chùa là các vị “khai sơn tạo tự”. Trên miền đất quê hương của núi Bà Đen, có nhiều ngôi chùa do phụ nữ “khai sơn”, nhiều nhất là ở các ngôi tịnh xá của hệ phái khất sĩ. Đấy là nơi tu hành của các vị ni sư. Ngay ở thành phố Tây Ninh, ta có thể dễ dàng tìm thấy vài ngôi, như tịnh xá Ngọc Ninh, Ngọc Truyền trên địa bàn phường 1.
Trong hệ thống chùa Phật Bắc tông ở Tây Ninh, cũng có một số ngôi do các bà sáng lập. Đấy là chùa Phước Hoà và chùa Hội Phước Hoà ở xã An Hoà, huyện Trảng Bàng. Thành phố Tây Ninh có chùa Như Lai, còn gọi là chùa Ông Hổ do bà Nguyễn Thị Có lập ra vào năm 1930. Bà từng phát nguyện xuất gia tại chùa Thiền Lâm - Gò Kén dưới thời trụ trì của Hoà thượng Từ Phong (Như Nhãn).
Xa xưa nhất và có tiếng tốt vang xa nhất là các bà đã “khai sơn tạo tự” chùa Phước Lưu nay thuộc thị trấn Trảng Bàng. Khi mới lập, đó mới chỉ là một am cốc nhỏ vừa là nơi ở, vừa là chốn tu hành. Ngay tại trang đầu bản chép tay Lược sử nguyên thỉ chùa Phước Lưu cổ tự, Hoà thượng Thích Huệ Tánh, đời thứ 5 trụ trì chùa đã khẳng định: “Chùa Phước Lưu nầy là của Hai Bà sáng tạo, còn đến ngày hôm nay”. Gốc hai bà này là phiêu lưu lục tỉnh, ông bà xui khiến đến Trảng Bàng, mới trụ lại chỗ gốc chùa Phước Lưu hôm nay…”.
Hai bà ấy, theo Vương Công Đức trong sách Trảng Bàng phương chí, một bà là Nguyễn Thị Tử (hoặc Trinh) (1837-1884) pháp danh Chơn Trinh, tự là Diệu Tiết. Bà thứ hai là Trần Thị Nên (1836-1909), pháp danh Chơn Tăng, tự là Tiên Cốt. Bà Tử có nghề ngồi đồng, còn bà Nên lại chuyên nghề bắt mạch, kê đơn bốc thuốc cho dân khắp xứ Trảng Bàng.
Cái am tranh do hai bà cùng nhau tạo dựng, nhưng bà Tử đứng tên làm chủ, nên còn được gọi là am bà Đồng. Sân trong của chùa Phước Lưu hiện nay vẫn còn hai ngôi mộ của các bà, bia đá khắc ghi bằng chữ Hán. Trên bia mộ bà Trần Thị Nên có khắc thêm một dòng chữ, dịch là “giới Ni cô đương chủ”, thêm một lần khẳng định các bà là người đầu tiên “khai sơn tạo tự” chùa này.
Cần nhắc lại rằng, bà Trần Thị Nên là mẹ của ông Mai Văn Lực, sau này là Hoà thượng Trừng Lực, người được coi là Tổ đời thứ nhất của Phước Lưu cổ tự. Một người phụ nữ khác, được coi là thuộc nhóm “Tổ sáng tạo” chùa Phước Lưu, chính là sư cô Diệu Thiện. Sư cô là em gái út (thứ bảy) của Hoà thượng Trừng Lực, nên còn được gọi là “Bà Bảy Diệu Thiện”.
Theo Hoà thượng Huệ Tánh: “Bà cũng là vị chơn tu, đặc biệt là có đi khoá luật trường Hương tại chùa Long Triều ở chợ Đệm, các vị Hoà thượng Giác Hải, Long Triều lúc còn sanh tiền đều biết bà. Bà Bảy là người phái nữ đầu tiên đi khoá luật, chẳng những ở Tây Ninh, mà có thể kể cả Nam kỳ lục tỉnh…”.
Theo Long vị thờ tại chùa thì bà Bảy có tên huý là Tâm Tánh, pháp danh Thích nữ Diệu Thiện. Bà mất năm 1938, thọ 71 tuổi theo âm lịch. Tính ra là bà sinh năm 1868. Hoà thượng Huệ Tánh viết: “Bà thuộc nhóm người sáng lập chùa Phước Lưu và là vị viên tịch sau chót trong nhóm ấy”.
Có một “chuyện tình” của ông Nguyễn Vạng Bửu, nguyên Cai tổng Hàm Ninh Thượng, quận Trảng Bàng có liên quan đến bà Bảy Diệu Thiện. Bản chép tay Lược sử nguyên thỉ chùa Phước Lưu cổ tự có đoạn chép rằng: “Thời gian còn trẻ, trước khi thọ giới xuất gia, bà cũng được một quan chức ở Trảng Bàng đến viếng chùa và thấy bà bưng nước đãi khách nên ngỏ ý muốn cưới bà.
Cụ Tổ (ý nói về sư Trừng Lực) đã khuyên dạy bà không nên theo đường thế tục, và bà lẩn trốn trong lu lớn mỗi khi quan chức ấy đến tìm gặp bà. Bà Bảy đã giữ trọn đời tu hành giải thoát cho đến khi viên tịch tại chùa…”.
Về câu chuyện này, trong cuốn Vạng Bửu tự thuật, tác giả có viết hẳn một mục tựa đề Oan trái éo le. Đấy là vào năm 1892, khi ông Vạng Bửu vừa 40 tuổi, mới lên chức Cai tổng hạng 3, đây cũng là lúc: “về nhìn gia đạo trước sau đều vắng lạnh, lửa lòng leo lét…”.
Tại chùa Phước Lưu, có cô vãi hiệu là đạo Thiện, tuổi còn nhỏ, sắc còn nồng mà lại sớm gửi thân vào chốn thiền đường, mạnh mẽ chí tu trì để rửa lòng trần tục. Thấy thế, tôi rất cảm đến người nhược chất, thừa lúc rảnh giờ tôi viết đại một bài (thơ) để đọc chơi giải buồn, mặc dầu viết rồi tôi cũng biết khua động là có tội…”.
Năm 1892, tức là cô Diệu Thiện mới 24 tuổi, và mới chỉ là “bà vãi” chưa phát nguyện tu hành.
Bài thơ có tựa là Mong ước với 2 câu mở đầu:
“Trước kính mô Phật má, và mô Phật các sư huynh
Sau mô Phật một chữ tình, là mô Phật cô Đạo Thiện”.
Chùa Phước Lưu.
Dân gian thường gọi những người khai sáng lập chùa là các vị “khai sơn tạo tự”. Trên miền đất quê hương của núi Bà Đen, có nhiều ngôi chùa do phụ nữ “khai sơn”, nhiều nhất là ở các ngôi tịnh xá của hệ phái khất sĩ. Đấy là nơi tu hành của các vị ni sư. Ngay ở thành phố Tây Ninh, ta có thể dễ dàng tìm thấy vài ngôi, như tịnh xá Ngọc Ninh, Ngọc Truyền trên địa bàn phường 1.
Trong hệ thống chùa Phật Bắc tông ở Tây Ninh, cũng có một số ngôi do các bà sáng lập. Đấy là chùa Phước Hoà và chùa Hội Phước Hoà ở xã An Hoà, huyện Trảng Bàng. Thành phố Tây Ninh có chùa Như Lai, còn gọi là chùa Ông Hổ do bà Nguyễn Thị Có lập ra vào năm 1930. Bà từng phát nguyện xuất gia tại chùa Thiền Lâm - Gò Kén dưới thời trụ trì của Hoà thượng Từ Phong (Như Nhãn).
Xa xưa nhất và có tiếng tốt vang xa nhất là các bà đã “khai sơn tạo tự” chùa Phước Lưu nay thuộc thị trấn Trảng Bàng. Khi mới lập, đó mới chỉ là một am cốc nhỏ vừa là nơi ở, vừa là chốn tu hành. Ngay tại trang đầu bản chép tay Lược sử nguyên thỉ chùa Phước Lưu cổ tự, Hoà thượng Thích Huệ Tánh, đời thứ 5 trụ trì chùa đã khẳng định: “Chùa Phước Lưu nầy là của Hai Bà sáng tạo, còn đến ngày hôm nay”. Gốc hai bà này là phiêu lưu lục tỉnh, ông bà xui khiến đến Trảng Bàng, mới trụ lại chỗ gốc chùa Phước Lưu hôm nay…”.
Hai bà ấy, theo Vương Công Đức trong sách Trảng Bàng phương chí, một bà là Nguyễn Thị Tử (hoặc Trinh) (1837-1884) pháp danh Chơn Trinh, tự là Diệu Tiết. Bà thứ hai là Trần Thị Nên (1836-1909), pháp danh Chơn Tăng, tự là Tiên Cốt. Bà Tử có nghề ngồi đồng, còn bà Nên lại chuyên nghề bắt mạch, kê đơn bốc thuốc cho dân khắp xứ Trảng Bàng.
Cái am tranh do hai bà cùng nhau tạo dựng, nhưng bà Tử đứng tên làm chủ, nên còn được gọi là am bà Đồng. Sân trong của chùa Phước Lưu hiện nay vẫn còn hai ngôi mộ của các bà, bia đá khắc ghi bằng chữ Hán. Trên bia mộ bà Trần Thị Nên có khắc thêm một dòng chữ, dịch là “giới Ni cô đương chủ”, thêm một lần khẳng định các bà là người đầu tiên “khai sơn tạo tự” chùa này.
Cần nhắc lại rằng, bà Trần Thị Nên là mẹ của ông Mai Văn Lực, sau này là Hoà thượng Trừng Lực, người được coi là Tổ đời thứ nhất của Phước Lưu cổ tự. Một người phụ nữ khác, được coi là thuộc nhóm “Tổ sáng tạo” chùa Phước Lưu, chính là sư cô Diệu Thiện. Sư cô là em gái út (thứ bảy) của Hoà thượng Trừng Lực, nên còn được gọi là “Bà Bảy Diệu Thiện”.
Theo Hoà thượng Huệ Tánh: “Bà cũng là vị chơn tu, đặc biệt là có đi khoá luật trường Hương tại chùa Long Triều ở chợ Đệm, các vị Hoà thượng Giác Hải, Long Triều lúc còn sanh tiền đều biết bà. Bà Bảy là người phái nữ đầu tiên đi khoá luật, chẳng những ở Tây Ninh, mà có thể kể cả Nam kỳ lục tỉnh…”.
Theo Long vị thờ tại chùa thì bà Bảy có tên huý là Tâm Tánh, pháp danh Thích nữ Diệu Thiện. Bà mất năm 1938, thọ 71 tuổi theo âm lịch. Tính ra là bà sinh năm 1868. Hoà thượng Huệ Tánh viết: “Bà thuộc nhóm người sáng lập chùa Phước Lưu và là vị viên tịch sau chót trong nhóm ấy”.
Có một “chuyện tình” của ông Nguyễn Vạng Bửu, nguyên Cai tổng Hàm Ninh Thượng, quận Trảng Bàng có liên quan đến bà Bảy Diệu Thiện. Bản chép tay Lược sử nguyên thỉ chùa Phước Lưu cổ tự có đoạn chép rằng: “Thời gian còn trẻ, trước khi thọ giới xuất gia, bà cũng được một quan chức ở Trảng Bàng đến viếng chùa và thấy bà bưng nước đãi khách nên ngỏ ý muốn cưới bà.
Cụ Tổ (ý nói về sư Trừng Lực) đã khuyên dạy bà không nên theo đường thế tục, và bà lẩn trốn trong lu lớn mỗi khi quan chức ấy đến tìm gặp bà. Bà Bảy đã giữ trọn đời tu hành giải thoát cho đến khi viên tịch tại chùa…”.
Về câu chuyện này, trong cuốn Vạng Bửu tự thuật, tác giả có viết hẳn một mục tựa đề Oan trái éo le. Đấy là vào năm 1892, khi ông Vạng Bửu vừa 40 tuổi, mới lên chức Cai tổng hạng 3, đây cũng là lúc: “về nhìn gia đạo trước sau đều vắng lạnh, lửa lòng leo lét…”.
Tại chùa Phước Lưu, có cô vãi hiệu là đạo Thiện, tuổi còn nhỏ, sắc còn nồng mà lại sớm gửi thân vào chốn thiền đường, mạnh mẽ chí tu trì để rửa lòng trần tục. Thấy thế, tôi rất cảm đến người nhược chất, thừa lúc rảnh giờ tôi viết đại một bài (thơ) để đọc chơi giải buồn, mặc dầu viết rồi tôi cũng biết khua động là có tội…”.
Năm 1892, tức là cô Diệu Thiện mới 24 tuổi, và mới chỉ là “bà vãi” chưa phát nguyện tu hành.
Bài thơ có tựa là Mong ước với 2 câu mở đầu:
“Trước kính mô Phật má, và mô Phật các sư huynh
Sau mô Phật một chữ tình, là mô Phật cô Đạo Thiện”.
Tiếp theo là 25 câu nữa, xin trích một vài câu:
“Phận cô áo từ bi gài vãi
“Phận cô áo từ bi gài vãi
Lòng tôi mong mở cửa động đào
Dẫu đặng không cũng đánh một quào
Phật có quở thì tôi Nam mô a di đà Phật
Bớ cô Đạo Thiện ơi!
Cửa bồ- đề lòng cô mong đóng chặt
Lấy chước gì để trả nợ ba sinh
Mùi say sưa cô nên giả chút tình
Đừng ngơ ngác mà ngậm hờn về chín suối…
Ý mầng răng cũng theo dõi với tình
Bịnh đoạn trường lương dược chữa được không
Cô phải ngả mặn mới an mọi chứng”.
Theo ông Vạng Bửu, bài thơ để trên bàn chứ không có ý gửi, nhưng vô tình mà một người giúp việc thấy, lẻn đem đi dán trước cổng chùa. Sau có một bổn đạo cao tuổi cầm thư đến gặp, đại ý là bà thân của cô Diệu Thiện nhờ đến hỏi:- Nếu thực lòng như lời thơ viết, thì nhà chùa sẽ cân nhắc việc cho cô Đạo Thiện để tóc.
Ông Vạng Bửu mới thưa rằng: “Xin ông về trả lời lại với nhà chùa giùm, rằng tôi rất ăn năn và nguyện xin sám hối việc tôi làm. Vì tôi làm động tâm đến một linh hồn đã xa mùi thế tục, thiệt tôi không biết làm sao rửa sạch tội này. Bởi cái buồn của tôi dồn dập quá nên tôi lúc cảm hứng mượn văn chương để gần chốn am mây nhìn thoàn bát nhã- Rồi tôi xin bức thư lại”.
Trên đây mới là chuyện của ba bà “Tổ sáng tạo” chùa Phước Lưu, may được người đời ghi chép lại. Còn biết bao câu chuyện khác của nhiều thế hệ nữ tu Phật giáo đã chìm khuất vào bóng tối thời gian hàng trăm năm quá khứ. Nhưng hình bóng của họ vẫn còn đó đây trên nhiều ngôi chùa và tịnh xá Tây Ninh.
Những bóng dáng màu đà hoặc màu lam, cần cù lao động, chay tịnh tiêu dùng, tương chao hẩm hút, nhưng họ vẫn dấn thân nhập thế, hy vọng làm được nhiều việc thiện hơn để giúp ích cho đời.
Theo ông Vạng Bửu, bài thơ để trên bàn chứ không có ý gửi, nhưng vô tình mà một người giúp việc thấy, lẻn đem đi dán trước cổng chùa. Sau có một bổn đạo cao tuổi cầm thư đến gặp, đại ý là bà thân của cô Diệu Thiện nhờ đến hỏi:- Nếu thực lòng như lời thơ viết, thì nhà chùa sẽ cân nhắc việc cho cô Đạo Thiện để tóc.
Ông Vạng Bửu mới thưa rằng: “Xin ông về trả lời lại với nhà chùa giùm, rằng tôi rất ăn năn và nguyện xin sám hối việc tôi làm. Vì tôi làm động tâm đến một linh hồn đã xa mùi thế tục, thiệt tôi không biết làm sao rửa sạch tội này. Bởi cái buồn của tôi dồn dập quá nên tôi lúc cảm hứng mượn văn chương để gần chốn am mây nhìn thoàn bát nhã- Rồi tôi xin bức thư lại”.
Trên đây mới là chuyện của ba bà “Tổ sáng tạo” chùa Phước Lưu, may được người đời ghi chép lại. Còn biết bao câu chuyện khác của nhiều thế hệ nữ tu Phật giáo đã chìm khuất vào bóng tối thời gian hàng trăm năm quá khứ. Nhưng hình bóng của họ vẫn còn đó đây trên nhiều ngôi chùa và tịnh xá Tây Ninh.
Những bóng dáng màu đà hoặc màu lam, cần cù lao động, chay tịnh tiêu dùng, tương chao hẩm hút, nhưng họ vẫn dấn thân nhập thế, hy vọng làm được nhiều việc thiện hơn để giúp ích cho đời.
TRẦN VŨ
Trăm năm chùa cổ
Dọc 2 bên bờ sông Vàm Cỏ Đông hiện có nhiều ngôi chùa cổ kính gần 200 năm tuổi. Những cơ sở thờ tự này được lập nên thể hiện tín ngưỡng của cư dân trong quá trình khai khẩn đất đai, hình thành vùng đất Tây Ninh xưa và nay.
Nhiều năm sau, có ni cô tên Trần Thị Nên, pháp danh Chơn Tăng, đến thảo am tu tập và cùng bà Đồng. Bà Nên lớn tuổi, người dân quen gọi là bà Cốc. Bà Đồng và bà Cốc ở am hành thiện cứu người. Tiếng lành đồn xa, ngày càng có nhiều người đến đây cúng viếng, chữa bệnh. Về sau, am được mở nâng cấp, rộng thành ngôi chùa và được gọi là chùa bà Đồng.
Trước khi tu tập, bà Cốc có 3 người con trai, đều xuất gia. Người con lớn của bà lấy pháp danh là Trừng Lực. Sau khi bà Cốc, bà Đồng qua đời, sư Trừng Lực trụ trì ngôi chùa. Năm 1900, sư Trừng Lực huy động người Việt, người Hoa trong vùng đóng góp sức người, sức của cải tạo ngôi chùa và đặt tên Phước Lưu. Sau lần trùng tu ấy, nơi đây trở thành ngôi chùa lớn nhất ở Trảng Bàng cũng như của cả vùng phía Nam Tây Ninh.
Hiện tại, chùa Phước Lưu lưu giữ nhiều tranh, tượng quý, như bộ tranh Ngũ Hiền thượng kỳ thú do họa sĩ Năm Kiếng, người làng Gia Bình (Trảng Bàng xưa) vẽ. Chùa còn giữ gìn nhiều mộc bản được khắc vào khoảng năm 1898 với các nội dung pháp phái, sớ, điệp, chú, bát quái,... Trong chùa còn hàng trăm quyển kinh, luận, sách thuốc bằng chữ Hán Nôm, do các vị chư tổ biên soạn.
Anh Phí Thành Phát - hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Tây Ninh, cho biết, từ những năm 1900, chùa Phước Lưu từng là trung tâm đào tạo về nghi lễ Phật giáo ở Trảng Bàng. Chùa có kiến trúc theo kiểu chữ “Nhị”, gồm 2 lớp nhà tứ trụ nối tiếp nhau. Điểm thêm cho sự cổ kính là những bao lam, hoành phi, liễn đối được chạm khắc tinh xảo. Trong chùa còn lưu lại nét chữ do “thần bút” Mạc Thiên Trai - một thư pháp gia người Hoa nổi tiếng ở thế kỷ XIX, cùng chư tổ tại chùa thủ bút. Đây là ngôi cổ tự mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu của Tây Ninh được xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh và được giới thiệu là một trong 108 danh lam cổ tự của Việt Nam.
Đến tham quan chùa Phước Lưu vào những ngày lễ, phật tử, du khách được thấy một vật dụng khá đặc biệt, hiện được Hòa thượng Thích Thiện Nhân - Trụ trì chùa Phước Lưu, thường xuyên sử dụng mỗi khi tụng niệm, đó là một vỏ đạn do quân Mỹ-ngụy sử dụng trong chiến tranh. Hòa thượng dùng vỏ đạn này thay cho chiếc khánh trong các nghi lễ, khóa tụng trong chùa. Ông dùng chiếc bu-loong bằng kim loại gõ vào vỏ đạn để tạo ra âm thanh ngân vang.
Trụ trì Thích Thiện Nhân giải thích: “Trước đây, loại vũ khí này gây nên tội ác, nay chùa cải tạo để hướng dẫn cho bá tánh hướng thiện, nhằm nói lên tinh thần đạo pháp hướng mọi người làm lành lánh dữ, nương về nơi tam bảo để hạnh phúc an vui”.
Chùa Tịnh Lý
Ngoài chùa Phước Lưu, vùng đất Trảng Bàng còn ngôi chùa cổ Tịnh Lý, tọa lạc phường An Tịnh (thuộc thị xã Trảng Bàng cũ). Tiền thân của chùa này là một ngôi miếu nhỏ do những đứa trẻ chăn trâu trong làng dựng bằng tre, dưới gốc cây, giữa trảng Bàu Đắng. Trong miếu thờ các tượng Phật bằng đất sét, cũng do trẻ chăn trâu nặn từ đất của Bàu Đắng. Nhiều năm sau, nhiều người dân mang lễ vật đến cúng bái, thấy hiển linh nên người dân gọi là chùa Bàu Đắng.
Năm 1902, nhân một chuyến đi xem đắp đường, Tri huyện Nguyễn Vạn Bửu của quận Trảng Bàng (người gốc An Tịnh) thấy chùa Bàu Đắng nhỏ, thấp nên mời người trong làng phụ cất lại ngôi chùa với quy mô lớn hơn và đặt tên là chùa Tịnh Lý. Chữ Tịnh có ý là chùa ở làng An Tịnh, còn chữ Lý là lý hào, lý trưởng đại diện làng đứng ra xây chùa.
Hiện nay, chùa được xây dựng lại bằng tường gạch, mái ngói theo kiểu truyền thống của đình chùa Nam Bộ. Nhìn bên ngoài, chùa trông giống như ngôi nhà truyền thống của một chức sắc Nam Bộ xưa. Trước sân chùa là tượng Bồ tát Quan Thế Âm, hồ nước, hòn non bộ, các ban thờ Phật Di Lặc, Ba Đầu Ma Thắng Như Lai, miếu thờ Ngọc Hoàng, Linh Sơn thánh mẫu, Địa Mẫu, Ông Địa,...
Hiện nay, chùa Tịnh Lý còn lưu giữ một số hiện vật quý mang giá trị lịch sử, nghệ thuật như 3 tượng Phật bằng đất sét được quan Tri huyện Nguyễn Vạn Bửu nhờ nắn lại, gồm tượng Phật Thích Ca thiền định, Phật Thích Ca sơ sinh và tượng Ba Đầu Ma Thắng Như Lai.
Ngôi chùa làng mộc mạc chân quê này đã gắn bó với nhiều thế hệ người dân làng An Tịnh từ xưa đến nay.
Dọc theo hai bên bờ sông Vàm Cỏ Đông còn có một số ngôi chùa cổ kính khác, như Cao Sơn (xã Phước Thạnh), Thiền Lâm (phường Hòa Thành),... Những cơ sở thờ tự gần 200 năm tuổi này đều lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu của Tây Ninh. Gần 200 năm qua, những ngôi cổ tự ven sông Vàm đã đồng hành với lưu dân thời mở đất và góp phần vào sự phát triển Tây Ninh phồn thịnh ngày nay.
Chùa Phước Lưu
Trảng Bàng là vùng đất đầu tiên các di dân từ miền Trung đến Tây Ninh định cư. Trên vùng đất này, hiện còn tồn tại ngôi chùa cổ kính Phước Lưu. Tiền thân của ngôi chùa này là cái am nhỏ, mái lợp tranh được dựng lên ven vùng đất Trảng ngập nước để thờ Phật.
Am đầu tiên được lập vào năm Canh Tý 1840, sau đó, bà Nguyễn Thị Trinh, quê ở Long An (cũ), theo chân các di dân đến xứ Trảng cải tạo lại am thờ Phật. Người đàn bà này có khả năng lên đồng, tiên đoán tương lai, vì thế dân gian gọi bà Trinh là bà Đồng và ngôi thảo am cũng được gọi là “am bà Đồng”.
Trảng Bàng là vùng đất đầu tiên các di dân từ miền Trung đến Tây Ninh định cư. Trên vùng đất này, hiện còn tồn tại ngôi chùa cổ kính Phước Lưu. Tiền thân của ngôi chùa này là cái am nhỏ, mái lợp tranh được dựng lên ven vùng đất Trảng ngập nước để thờ Phật.
Am đầu tiên được lập vào năm Canh Tý 1840, sau đó, bà Nguyễn Thị Trinh, quê ở Long An (cũ), theo chân các di dân đến xứ Trảng cải tạo lại am thờ Phật. Người đàn bà này có khả năng lên đồng, tiên đoán tương lai, vì thế dân gian gọi bà Trinh là bà Đồng và ngôi thảo am cũng được gọi là “am bà Đồng”.
Chùa Phước Lưu năm 1950
Nhiều năm sau, có ni cô tên Trần Thị Nên, pháp danh Chơn Tăng, đến thảo am tu tập và cùng bà Đồng. Bà Nên lớn tuổi, người dân quen gọi là bà Cốc. Bà Đồng và bà Cốc ở am hành thiện cứu người. Tiếng lành đồn xa, ngày càng có nhiều người đến đây cúng viếng, chữa bệnh. Về sau, am được mở nâng cấp, rộng thành ngôi chùa và được gọi là chùa bà Đồng.
Trước khi tu tập, bà Cốc có 3 người con trai, đều xuất gia. Người con lớn của bà lấy pháp danh là Trừng Lực. Sau khi bà Cốc, bà Đồng qua đời, sư Trừng Lực trụ trì ngôi chùa. Năm 1900, sư Trừng Lực huy động người Việt, người Hoa trong vùng đóng góp sức người, sức của cải tạo ngôi chùa và đặt tên Phước Lưu. Sau lần trùng tu ấy, nơi đây trở thành ngôi chùa lớn nhất ở Trảng Bàng cũng như của cả vùng phía Nam Tây Ninh.
Những cổ vật quý trong chùa Phước Lưu
Hiện tại, chùa Phước Lưu lưu giữ nhiều tranh, tượng quý, như bộ tranh Ngũ Hiền thượng kỳ thú do họa sĩ Năm Kiếng, người làng Gia Bình (Trảng Bàng xưa) vẽ. Chùa còn giữ gìn nhiều mộc bản được khắc vào khoảng năm 1898 với các nội dung pháp phái, sớ, điệp, chú, bát quái,... Trong chùa còn hàng trăm quyển kinh, luận, sách thuốc bằng chữ Hán Nôm, do các vị chư tổ biên soạn.
Anh Phí Thành Phát - hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Tây Ninh, cho biết, từ những năm 1900, chùa Phước Lưu từng là trung tâm đào tạo về nghi lễ Phật giáo ở Trảng Bàng. Chùa có kiến trúc theo kiểu chữ “Nhị”, gồm 2 lớp nhà tứ trụ nối tiếp nhau. Điểm thêm cho sự cổ kính là những bao lam, hoành phi, liễn đối được chạm khắc tinh xảo. Trong chùa còn lưu lại nét chữ do “thần bút” Mạc Thiên Trai - một thư pháp gia người Hoa nổi tiếng ở thế kỷ XIX, cùng chư tổ tại chùa thủ bút. Đây là ngôi cổ tự mang nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và nghệ thuật tiêu biểu của Tây Ninh được xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh và được giới thiệu là một trong 108 danh lam cổ tự của Việt Nam.
Hòa thượng Thích Thiện Nhân - Trụ trì chùa Phước Lưu, dùng vỏ đạn thay cho chiếc khánh trong các nghi lễ
Đến tham quan chùa Phước Lưu vào những ngày lễ, phật tử, du khách được thấy một vật dụng khá đặc biệt, hiện được Hòa thượng Thích Thiện Nhân - Trụ trì chùa Phước Lưu, thường xuyên sử dụng mỗi khi tụng niệm, đó là một vỏ đạn do quân Mỹ-ngụy sử dụng trong chiến tranh. Hòa thượng dùng vỏ đạn này thay cho chiếc khánh trong các nghi lễ, khóa tụng trong chùa. Ông dùng chiếc bu-loong bằng kim loại gõ vào vỏ đạn để tạo ra âm thanh ngân vang.
Trụ trì Thích Thiện Nhân giải thích: “Trước đây, loại vũ khí này gây nên tội ác, nay chùa cải tạo để hướng dẫn cho bá tánh hướng thiện, nhằm nói lên tinh thần đạo pháp hướng mọi người làm lành lánh dữ, nương về nơi tam bảo để hạnh phúc an vui”.
Chùa Tịnh Lý
Ngoài chùa Phước Lưu, vùng đất Trảng Bàng còn ngôi chùa cổ Tịnh Lý, tọa lạc phường An Tịnh (thuộc thị xã Trảng Bàng cũ). Tiền thân của chùa này là một ngôi miếu nhỏ do những đứa trẻ chăn trâu trong làng dựng bằng tre, dưới gốc cây, giữa trảng Bàu Đắng. Trong miếu thờ các tượng Phật bằng đất sét, cũng do trẻ chăn trâu nặn từ đất của Bàu Đắng. Nhiều năm sau, nhiều người dân mang lễ vật đến cúng bái, thấy hiển linh nên người dân gọi là chùa Bàu Đắng.
Năm 1902, nhân một chuyến đi xem đắp đường, Tri huyện Nguyễn Vạn Bửu của quận Trảng Bàng (người gốc An Tịnh) thấy chùa Bàu Đắng nhỏ, thấp nên mời người trong làng phụ cất lại ngôi chùa với quy mô lớn hơn và đặt tên là chùa Tịnh Lý. Chữ Tịnh có ý là chùa ở làng An Tịnh, còn chữ Lý là lý hào, lý trưởng đại diện làng đứng ra xây chùa.
Hiện nay, chùa được xây dựng lại bằng tường gạch, mái ngói theo kiểu truyền thống của đình chùa Nam Bộ. Nhìn bên ngoài, chùa trông giống như ngôi nhà truyền thống của một chức sắc Nam Bộ xưa. Trước sân chùa là tượng Bồ tát Quan Thế Âm, hồ nước, hòn non bộ, các ban thờ Phật Di Lặc, Ba Đầu Ma Thắng Như Lai, miếu thờ Ngọc Hoàng, Linh Sơn thánh mẫu, Địa Mẫu, Ông Địa,...
Hiện nay, chùa Tịnh Lý còn lưu giữ một số hiện vật quý mang giá trị lịch sử, nghệ thuật như 3 tượng Phật bằng đất sét được quan Tri huyện Nguyễn Vạn Bửu nhờ nắn lại, gồm tượng Phật Thích Ca thiền định, Phật Thích Ca sơ sinh và tượng Ba Đầu Ma Thắng Như Lai.
Ngôi chùa làng mộc mạc chân quê này đã gắn bó với nhiều thế hệ người dân làng An Tịnh từ xưa đến nay.
Dọc theo hai bên bờ sông Vàm Cỏ Đông còn có một số ngôi chùa cổ kính khác, như Cao Sơn (xã Phước Thạnh), Thiền Lâm (phường Hòa Thành),... Những cơ sở thờ tự gần 200 năm tuổi này đều lưu giữ nhiều giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật tiêu biểu của Tây Ninh. Gần 200 năm qua, những ngôi cổ tự ven sông Vàm đã đồng hành với lưu dân thời mở đất và góp phần vào sự phát triển Tây Ninh phồn thịnh ngày nay.
Đại Dương
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét