Chùa tọa lạc ở số 75 đường Phương Thành, phường Bình San, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Chùa có khuôn viên rộng khoảng 2,5 ha. Mặt tiền chùa hướng phía Đông. ĐT: 077.852109. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Chùa Tam Bảo (năm 2000)
Chùa Tam Bảo (năm 2003)
Chùa do Thống binh Mạc Cửu cho dựng vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Sách Gia Định thành thông chí cho biết, thân mẫu của ông Thống binh là Thái Thái phu nhân đã được ông phụng dưỡng ở chùa này, sau bà hóa trước bàn thờ. Ông Mạc Cửu đã chôn cất mẹ ở núi Bình San, đúc tượng Phật A Di Đà bằng đồng thờ ở chùa.
Sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang (TT. Thích Giác Phước chủ biên, NXB. TP. Hồ Chí Minh, 2002) cho biết chùa thành lập năm 1730, vị trụ trì đầu tiên của chùa là Hòa thượng Ấn Hạ, cũng là Hòa thượng khai nguyên Phật giáo xứ Hà Tiên. Hòa thượng thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Chùa đã trải qua 19 đời trụ trì: Hòa thượng Hòa Quang, Thiền sư Nhất Đới, Thiền sư Trí Tàng, Thiền sư Hoằng Ân, Thiền sư Hải Huệ, Thiền sư Giác Ngạn, Thiền sư Như Đức, Thiền sư Như Khả, Thiền sư Phước Chơn, Hòa thượng Thuần Hạnh, Yết Ma Phước Thành, Hòa thượng Phước Ân, Hòa thượng Phước Quang, Hòa thượng Quảng Đức, Hòa thượng Vĩnh Đạt, Hòa thượng Chánh Định, Thượng tọa Thiện Giác (1960 – 1974) và từ năm 1974 đến nay là Ni sư Thích Nữ Như Hải (thế danh Huỳnh Thị Phước), Phó Trưởng ban Trị sự Phật giáo tỉnh Kiên Giang.
Điện Phật (năm 1996)
Điện Phật (năm 2003)
Bàn thờ Phật
Bàn thờ Bồ Tát Quan Âm
Ngôi chùa xưa đã hỏng, chỉ còn dấu vết ở các bức tường thành. Chùa đã được trùng tu nhiều lần. Kiến trúc chùa hiện nay do Hòa thượng Phước Ân, dòng Lâm Tế đời thứ 40 cho xây vào năm 1930 và cho trồng một số cây sao. Ni sư Thích nữ Như Hải đã tổ chức trùng tu và kiến tạo một số công trình như: An vị tượng Bồ tát Quan Âm lộ thiên cao 5m, nặng 7 tấn năm 1974 ở vườn cây trước chùa, trùng tu chánh điện và nhà Tổ năm 1979, an vị tượng Thiên Thủ Thiên nhãn năm 1987 sau điện Phật, an vị tượng đức Phật Thích Ca tọa thiền dưới cội bồ đề năm 1983 ở sân trước chùa, xây dựng cổng tam quan, phục chế bức tường đã sụp đổ năm 1992, an vị đài Di Lặc năm 2000 ở sân giữa chùa, an vị tượng Di Mẫu và 6 vị Tỳ kheo ni năm 2003 ở sân trước chùa.
Điện Phật được bài trí trang nghiêm. Vị trí cao nhất thờ tượng Di Đà Tam Tôn. Pho tượng đức Phật A Di Đà bằng đồng, cao 1,40m, do ông Mạc Cửu cúng, được tôn trí ở giữa, hai bên đặt tượng Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí. Kế tiếp có tượng đức Phật Thích Ca thành đạo, đức Phật Thích Ca khuyến thiện, tượng Thích Ca đản sanh và tượng đức Phật nhập Niết bàn. Đối diện bàn thờ Phật, có bàn thờ tượng Bồ tát Phổ Hiền, Hộ Pháp, Bồ tát Địa Tạng và Tiêu Diện.
Tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn
Tháp mộ Thái Thái Bà Bà ở sau chùa
Tượng đài Thích Ca ở sân trước chùa
Đài Quan Âm ở sân trước chùa
Bàn thờ Di mẫu ở sân trước chùa
Vườn tượng Di mẫu thuyết pháp
Chùa có thành lập Gia đình Phật tử từ năm 1985 và tổ chức Đạo tràng Huệ Giải, thọ Bát quan trai mỗi tháng.
Ở sân trước chùa còn có phòng phát hành kinh sách, tranh tượng Phật giáo đa dạng, phong phú.
Sắc tứ Tam Bảo là ngôi chùa cổ danh tiếng trong thắng cảnh Hà Tiên. Chùa đã đón tiếp hằng vạn du khách, Phật tử đến tham quan, chiêm bái hằng năm.
Điện thờ Di Lặc
Bàn thờ Bồ Tát Di Lặc
Đài Quan Âm ở sân sau chùa
Vườn hoa sau chùa
Vách chùa ngày xưa
Phòng phát hành kinh sách
Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Âm vang Tiêu tự thần chung
Tọa lạc tại số 75 đường Phương Thành, TX.Hà Tiên (Kiên Giang), Sắc tứ Tam Bảo là một trong những ngôi chùa xưa nhất ở Hà Tiên. Đây là ngôi chùa do Tổng binh Mạc Cửu xây dựng để thân mẫu của ông là Thái Thái phu nhân tu hành trong những năm cuối đời.
Theo sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang thì chùa Tam Bảo được xây dựng vào năm 1730. Thời Tao đàn Chiêu Anh các, tiếng chuông chùa là nguồn cảm hứng để Mạc Thiên Tích sáng tác bài thơ Tiêu tự thần chung. Nhưng lịch sử ngôi chùa qua nhiều thăng trầm, biến đổi nên cũng còn những điều chưa rõ.
Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo
Căn cứ bài thơ Tiêu tự thần chung của Mạc Thiên Tích, ni trưởng Như Hải, trụ trì Sắc tứ Tam Bảo, giải thích rằng “Tiêu tự” là nơi tu hành tĩnh mịch, “thần chung” là tiếng chuông thỉnh buổi sáng và suy luận ngôi chùa xưa ở sát công thự (của Tổng binh Mạc Cửu). Cách giải thích này khá gần với thông tin mà nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt cung cấp cho chúng tôi: “Thời Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, nơi ngôi chùa tọa lạc hiện nay vốn là Trấn thượng/dinh cơ của Mạc Cửu, phía sau hậu liêu ông có cất một gian phòng cho mẫu thân ông tu hành. Vào năm 1718, Hà Tiên bị quân Xiêm tấn công. Bấy giờ bà Mạc Cửu chạy nạn qua Lủng Kỳ và hạ sinh Mạc Thiên Tích”.
Đến giai đoạn Mạc Thiên Tích kế vị cha, ngôi chùa cổ có lẽ vẫn nằm trong khu vực Trấn thượng. Năm 1771, vua Xiêm PhyaTak Sin (Trịnh Tân) lại đem quân sang tấn công Hà Tiên, đánh bại Mạc Thiên Tích. Lần này ông chạy sang Cà Mau trong khi Hà Tiên gần như bị san bằng. Trấn thượng vì vậy cũng không còn tồn tại và ngôi chùa cũng trở thành phế tích, mặc dù người Xiêm sùng đạo Phật và không có hành vi phá chùa.
Ông Trương Minh Đạt còn cho biết ông sưu tầm được một tấm bản đồ do người Pháp vẽ năm 1869, tức 3 năm sau khi thực dân Pháp xua quân chiếm nốt các tỉnh miền Tây Nam kỳ và thôn tính đất Hà Tiên, trong đó địa điểm chùa Tam Bảo hiện nay vẫn ghi trên bản đồ là phế tích. Cũng theo ông Đạt, chùa Sắc tứ Tam Bảo được khởi công xây dựng lại khoảng năm 1920 trở về sau và đến khoảng năm 1935 mới hoàn thành. Giai đoạn này hòa thượng Hồng Chức Phước Ân, dòng Lâm tế chánh tông đời thứ 40 vận động phật tử góp công, góp của tu bổ. Đến khoảng 5 năm sau thì Sắc tứ Tam Bảo trở thành ngôi chùa quy mô tráng lệ.
Từ đó đến nay, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Song điều đáng quý là phế tích bức tường thành được xem là dấu vết của Trấn thành thời Tổng binh Mạc Cửu hiện vẫn còn gìn giữ.
Chiếc đại hồng chung
Hiện nay, trong khuôn viên chùa Sắc tứ Tam Bảo còn hai tháp lớn: một là của hòa thượng Ấn Trừng, hai là của hòa thượng Phước Ân. Hòa thượng Phật Hội - Ấn Trừng đời thứ 35 Lâm tế chánh tông (theo dòng kệ Đạo bổn nguyên thành phật tổ tiên) là vị trụ trì đầu tiên của ngôi chùa xưa.
Tương truyền, đêm nọ mẹ của quan Tổng binh Mạc Cửu nằm mộng thấy con rồng vàng ngậm cành hoa sen quấn trên cột buồm chiếc ghe thương hồ từ hướng bắc đến. Hôm sau bà thuật lại cho Mạc Cửu nghe. Ít lâu sau có một vị tu sĩ tướng mạo bất phàm đến xin diện kiến. Khi hỏi ra mới biết ông là một danh tướng của nhà Minh, vì không phục nhà Thanh nên rời bỏ quê hương sang Nam triều rồi chán cảnh thế nhân xuất gia theo Phật, được pháp hiệu là Ấn Trừng. Nghe xong, ngài tổng binh thấy ứng với điềm báo mộng của mẹ bèn lưu ông lại trấn phủ truyền giáo quy giới cho mẹ tu hành. Một số bài viết giới thiệu về Sắc tứ Tam Bảo tự còn ghi rằng, tu hành được một thời gian, Thái bà bà (mẫu thân Mạc Cửu) tọa hóa trước Phật đài. Ngài Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền.
Tuy nhiên, theo ni trưởng Như Hải thì Thái bà bà vãng sanh ngay lúc làm lễ xuất gia tại chánh điện và hiện trong chùa cũng không có (tượng) kim thân của bà. Chỉ có bài vị thờ mà các nhà nghiên cứu cho rằng bút tích của Mạc Thiên Tích và ngôi mộ của bà ở phía sau chùa. Cách đây mấy năm, hậu duệ họ Mạc ở Cà Mau đã qua đây trùng tu xây tháp, còn trước đó thì chỉ là ngôi mộ bình thường. Trong chùa nay chỉ còn lưu giữ bức kim thân A Di đà do Tổng binh Mạc Cửu mang từ Trung Quốc sang. Nhưng bức tượng hiện đã sơn phết nhiều lớp, khó xác định. Riêng chiếc đại hồng chung được người đời truyền tụng là chiếc chuông mà Tổng trấn Mạc Thiên Tích cảm tác qua bài thơ nổi tiếng Tiêu tự thần chung được đúc vào thời Minh Mạng.
Liên quan đến các dữ kiện trên, ông Trương Minh Đạt cho rằng Hà Tiên là vùng đất giặc giã liên miên, Trấn thành bị phá nhiều lần, cho nên di vật người xưa khó tồn tại. Bức tượng kim thân A Di đà hiện nay cũng có thể là bức tượng của ngôi chùa cũ được tìm thấy sau này, song chưa có tư liệu nào nói đây là bức tượng của ông Mạc Cửu mang từ Trung Quốc sang hay do ông đúc tại Hà Tiên. Họ Mạc từng đúc tiền riêng thì khả năng đúc tượng không phải không thực hiện được. Riêng về chiếc đại hồng chung, chữ khắc trên chuông quá mờ khó đọc, nhưng theo tư liệu ông có được thì đây là chiếc chuông do hai vợ chồng phật tử hiến cúng vào khoảng năm 1890. Hòa thượng Hoằng Nghĩa hiện còn mộ ở chùa Giác Viên, đã được mời đến làm lễ chứng minh cho chiếc đại hồng chung này. Do đó, không thể nói chiếc chuông được đúc vào thời Minh Mạng. Chiếc chuông trong “Tiêu tự thần chung” một thời âm vang có thể đã bị hủy hoại trong lúc quân Xiêm chiếm đóng Hà Tiên.
Sắc tứ Tam Bảo tự nổi tiếng với Tiêu tự thần chung còn chịu đựng những biến cố thời cuộc về sau. Ni trưởng Như Hải cho biết, năm 1974 khi bà về trụ trì, chùa đã xuống cấp nghiêm trọng vì trước đó mấy năm, do chính quyền Lon Nol đàn áp, nhiều Việt kiều chạy về quê lánh nạn đã đến chùa căng lều tạm ở nhờ. Rồi năm 1978 - 1979, bọn diệt chủng Pôn Pốt tràn sang Hà Tiên bắn giết dân lành, ni sư lại tiếp tục bỏ chùa chạy lên Bãi Ớt lánh nạn.
Theo sách Lược sử những ngôi chùa ở Kiên Giang thì chùa Tam Bảo được xây dựng vào năm 1730. Thời Tao đàn Chiêu Anh các, tiếng chuông chùa là nguồn cảm hứng để Mạc Thiên Tích sáng tác bài thơ Tiêu tự thần chung. Nhưng lịch sử ngôi chùa qua nhiều thăng trầm, biến đổi nên cũng còn những điều chưa rõ.
Lịch sử chùa Sắc tứ Tam Bảo
Căn cứ bài thơ Tiêu tự thần chung của Mạc Thiên Tích, ni trưởng Như Hải, trụ trì Sắc tứ Tam Bảo, giải thích rằng “Tiêu tự” là nơi tu hành tĩnh mịch, “thần chung” là tiếng chuông thỉnh buổi sáng và suy luận ngôi chùa xưa ở sát công thự (của Tổng binh Mạc Cửu). Cách giải thích này khá gần với thông tin mà nhà nghiên cứu Trương Minh Đạt cung cấp cho chúng tôi: “Thời Mạc Cửu làm Tổng binh trấn Hà Tiên, nơi ngôi chùa tọa lạc hiện nay vốn là Trấn thượng/dinh cơ của Mạc Cửu, phía sau hậu liêu ông có cất một gian phòng cho mẫu thân ông tu hành. Vào năm 1718, Hà Tiên bị quân Xiêm tấn công. Bấy giờ bà Mạc Cửu chạy nạn qua Lủng Kỳ và hạ sinh Mạc Thiên Tích”.
Đến giai đoạn Mạc Thiên Tích kế vị cha, ngôi chùa cổ có lẽ vẫn nằm trong khu vực Trấn thượng. Năm 1771, vua Xiêm PhyaTak Sin (Trịnh Tân) lại đem quân sang tấn công Hà Tiên, đánh bại Mạc Thiên Tích. Lần này ông chạy sang Cà Mau trong khi Hà Tiên gần như bị san bằng. Trấn thượng vì vậy cũng không còn tồn tại và ngôi chùa cũng trở thành phế tích, mặc dù người Xiêm sùng đạo Phật và không có hành vi phá chùa.
Chùa Sắc tứ Tam Bảo ở Hà Tiên - Ảnh: H.P
Ông Trương Minh Đạt còn cho biết ông sưu tầm được một tấm bản đồ do người Pháp vẽ năm 1869, tức 3 năm sau khi thực dân Pháp xua quân chiếm nốt các tỉnh miền Tây Nam kỳ và thôn tính đất Hà Tiên, trong đó địa điểm chùa Tam Bảo hiện nay vẫn ghi trên bản đồ là phế tích. Cũng theo ông Đạt, chùa Sắc tứ Tam Bảo được khởi công xây dựng lại khoảng năm 1920 trở về sau và đến khoảng năm 1935 mới hoàn thành. Giai đoạn này hòa thượng Hồng Chức Phước Ân, dòng Lâm tế chánh tông đời thứ 40 vận động phật tử góp công, góp của tu bổ. Đến khoảng 5 năm sau thì Sắc tứ Tam Bảo trở thành ngôi chùa quy mô tráng lệ.
Từ đó đến nay, chùa đã được trùng tu nhiều lần. Song điều đáng quý là phế tích bức tường thành được xem là dấu vết của Trấn thành thời Tổng binh Mạc Cửu hiện vẫn còn gìn giữ.
Chiếc đại hồng chung
Hiện nay, trong khuôn viên chùa Sắc tứ Tam Bảo còn hai tháp lớn: một là của hòa thượng Ấn Trừng, hai là của hòa thượng Phước Ân. Hòa thượng Phật Hội - Ấn Trừng đời thứ 35 Lâm tế chánh tông (theo dòng kệ Đạo bổn nguyên thành phật tổ tiên) là vị trụ trì đầu tiên của ngôi chùa xưa.
Tương truyền, đêm nọ mẹ của quan Tổng binh Mạc Cửu nằm mộng thấy con rồng vàng ngậm cành hoa sen quấn trên cột buồm chiếc ghe thương hồ từ hướng bắc đến. Hôm sau bà thuật lại cho Mạc Cửu nghe. Ít lâu sau có một vị tu sĩ tướng mạo bất phàm đến xin diện kiến. Khi hỏi ra mới biết ông là một danh tướng của nhà Minh, vì không phục nhà Thanh nên rời bỏ quê hương sang Nam triều rồi chán cảnh thế nhân xuất gia theo Phật, được pháp hiệu là Ấn Trừng. Nghe xong, ngài tổng binh thấy ứng với điềm báo mộng của mẹ bèn lưu ông lại trấn phủ truyền giáo quy giới cho mẹ tu hành. Một số bài viết giới thiệu về Sắc tứ Tam Bảo tự còn ghi rằng, tu hành được một thời gian, Thái bà bà (mẫu thân Mạc Cửu) tọa hóa trước Phật đài. Ngài Mạc Cửu cho đúc kim thân của mẹ để thờ, đúc một đại hồng chung để cúng và nghe tiếng chuông mà tưởng niệm mẹ hiền.
Tuy nhiên, theo ni trưởng Như Hải thì Thái bà bà vãng sanh ngay lúc làm lễ xuất gia tại chánh điện và hiện trong chùa cũng không có (tượng) kim thân của bà. Chỉ có bài vị thờ mà các nhà nghiên cứu cho rằng bút tích của Mạc Thiên Tích và ngôi mộ của bà ở phía sau chùa. Cách đây mấy năm, hậu duệ họ Mạc ở Cà Mau đã qua đây trùng tu xây tháp, còn trước đó thì chỉ là ngôi mộ bình thường. Trong chùa nay chỉ còn lưu giữ bức kim thân A Di đà do Tổng binh Mạc Cửu mang từ Trung Quốc sang. Nhưng bức tượng hiện đã sơn phết nhiều lớp, khó xác định. Riêng chiếc đại hồng chung được người đời truyền tụng là chiếc chuông mà Tổng trấn Mạc Thiên Tích cảm tác qua bài thơ nổi tiếng Tiêu tự thần chung được đúc vào thời Minh Mạng.
Liên quan đến các dữ kiện trên, ông Trương Minh Đạt cho rằng Hà Tiên là vùng đất giặc giã liên miên, Trấn thành bị phá nhiều lần, cho nên di vật người xưa khó tồn tại. Bức tượng kim thân A Di đà hiện nay cũng có thể là bức tượng của ngôi chùa cũ được tìm thấy sau này, song chưa có tư liệu nào nói đây là bức tượng của ông Mạc Cửu mang từ Trung Quốc sang hay do ông đúc tại Hà Tiên. Họ Mạc từng đúc tiền riêng thì khả năng đúc tượng không phải không thực hiện được. Riêng về chiếc đại hồng chung, chữ khắc trên chuông quá mờ khó đọc, nhưng theo tư liệu ông có được thì đây là chiếc chuông do hai vợ chồng phật tử hiến cúng vào khoảng năm 1890. Hòa thượng Hoằng Nghĩa hiện còn mộ ở chùa Giác Viên, đã được mời đến làm lễ chứng minh cho chiếc đại hồng chung này. Do đó, không thể nói chiếc chuông được đúc vào thời Minh Mạng. Chiếc chuông trong “Tiêu tự thần chung” một thời âm vang có thể đã bị hủy hoại trong lúc quân Xiêm chiếm đóng Hà Tiên.
Sắc tứ Tam Bảo tự nổi tiếng với Tiêu tự thần chung còn chịu đựng những biến cố thời cuộc về sau. Ni trưởng Như Hải cho biết, năm 1974 khi bà về trụ trì, chùa đã xuống cấp nghiêm trọng vì trước đó mấy năm, do chính quyền Lon Nol đàn áp, nhiều Việt kiều chạy về quê lánh nạn đã đến chùa căng lều tạm ở nhờ. Rồi năm 1978 - 1979, bọn diệt chủng Pôn Pốt tràn sang Hà Tiên bắn giết dân lành, ni sư lại tiếp tục bỏ chùa chạy lên Bãi Ớt lánh nạn.
Ngọc Phan - Hoàng Phương
Theo dòng lịch sử Sắc Tứ Tam Bảo Tự
Nhắc đến Hà Tiên, không thể không nhắc đến công lao của Mạc Cửu – Tổng binh trấn Hà Tiên, người đã khai hoang và xây dựng vùng đất này thành nơi trù phú, phát triển thương mại và Phật giáo. Ngôi chùa nổi tiếng nhất trên đất Hà Tiên – Sắc Tứ Tam Bảo tự – cũng do chính ông xây dựng.
Hình thành khoảng thế kỷ XVI và có vị trí đắc địa trên vịnh Thái Lan, Hà Tiên được xem là cửa ngõ giao lưu văn hóa, thương mại. Nơi đây được mệnh danh là chốn: “Huyền ca đất Phật người hiền/Ngàn năm Văn hiến Hà Tiên lưu đời”, bởi người dân chủ yếu theo đạo Phật. Qua bao thăng trầm của lịch sử, đạo Phật vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần ở địa phương. Nhắc đến Hà Tiên, không thể không nhắc đến công lao của Mạc Cửu – Tổng binh trấn Hà Tiên, người đã khai hoang và xây dựng vùng đất này thành nơi trù phú, phát triển thương mại và Phật giáo. Ngôi chùa nổi tiếng nhất trên đất Hà Tiên – Sắc Tứ Tam Bảo tự – cũng do chính ông xây dựng.
Gần 03 thế kỷ trôi qua, tre già măng mọc, các bậc Tôn đức nối tiếp nhau truyền bá chánh pháp. Chùa Sắc Tứ Tam Bảo trải qua 21 đời trụ trì [8]:
1. HT. Thượng Ấn hạ Trừng Thiền sư (đạo hiệu Huỳnh Long).
2. HT. Hòa Quang Hiền Thiền sư
3. Minh Tam Nhất Đới Thiền sư
4. Minh Giác Trí Tàng Thiền sư
5. Minh Liêm Hoằng Ấn Thiền sư
6. Minh Thông Hải Huệ Thiền sư
7. Minh Chơn Giác Ngạn Thiền sư
8. Như Đức Vĩnh Trọng Thiền sư
9. Như Khả Chơn Truyền Thiền sư
10. Nhứt Huy Phước Chơn Thiền sư
11. Thuần Hạnh Hòa thượng
12. Phước Thành Yết ma
13. Phước Ân Hòa thượng (1920-1946)
14. Phước Quang Hòa thượng
15. Thích Quảng Đức Hòa thượng (1957-1959)
16. Thích Vĩnh Đạt Hòa thượng
17. Thích Chánh Định Hòa thượng
18. Thích Thiện Giác (1960-1974)
19. Thích Thiện Hạnh
20. Ni trưởng Thích Nữ Như Hải.
Và vị trụ trì hiện tại là Ni sư Thích Nữ Như Kim. Trải qua 19 đời trụ trì đầu tiên là chư Tôn đức Tăng. Bắt đầu vị trụ trì thứ 20 trở đi là các vị Tôn đức Ni.
3. Kiến trúc chùa Sắc Tứ Tam Bảo theo dòng lịch sử
Được xây dựng vào năm 1730, chùa Sắc Tứ Tam Bảo nằm trong khu vực giáp với biên giới Tây Nam, chịu ảnh hưởng của những cuộc chiến tranh. Nhưng gần 03 thập kỷ qua, ngôi Sắc Tứ Tam Bảo vẫn ngày càng hưng thịnh, cũng nhờ vào các vị trụ trì nơi đây phát tâm tu sửa, với hạnh nguyện cho Phật giáo Hà Tiên phát triển. Để có được ngày hôm nay, ngôi Sắc Tứ Tam Bảo phải trải qua nhiều lần trùng tu. Đáng kể nhất là hai lần trùng tu sau:
Lần thứ nhất, thời Hòa thượng Phước Ân (1920-1946) [9] thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, chứng kiến cảnh ngôi chùa bị thời gian làm hư hoại dần, đã vận động Phật tử tu bổ lại khang trang hơn. Để tôn tạo cảnh quan, Hòa thượng đã trồng một số cây cổ thụ lớn, chủ yếu là cây sao để tăng thêm sự uy nghiêm, cổ kính cho ngôi chùa.
Ngôi Sắc Tứ Tam Bảo được trùng tu và xây mới lần thứ hai dưới thời Ni trưởng Thích Nữ Như Hải. Ni trưởng Thích Nữ Như Hải thế danh là Huỳnh Thị Phước, sinh năm 1941 tại huyện Cầu Kè (tỉnh Trà Vinh). Năm 15 tuổi, Ni trưởng đã phát nguyện xuất gia tại chùa Quan Âm (Tiền Giang). Năm 1962, Ni trưởng tiếp tục tu học tại chùa Diệu Ấn (Phan Rang), sau đó đến chùa Dược Sư (Sài Gòn) tu học đến hết năm 1973. Vào ngày 08/4/1974, Ni trưởng Thích Nữ Như Hải được Hòa thượng Thích Huyền Vi và Hòa thượng Thích Thanh Từ tin tưởng và bổ nhiệm về trụ trì chùa Sắc Tứ Tam Bảo [10].
Ni trưởng có công trùng tu và xây mới các hạng mục công trình, tôn tạo cho ngôi Sắc Tứ Tam Bảo hoàn thiện, khang trang. Năm 2014 khánh thành cổng Tam quan chùa Sắc Tứ Tam Bảo, hai bên có đôi câu đối: “Nhất trần bất nhiễm Bồ đề địa. Vạn thiện đồng quy Bát nhã môn”, nghĩa là: “Không có một bụi trần nào có thể nhiễm vào đất Bồ đề. Tất cả mọi điều thiện đều quay về cửa Bát nhã”.
Hiện nay, Ni sư Thích Nữ Như Kim là vị trụ trì thứ 21 – tiếp nối hoằng dương ngôi Tam Bảo. Ni sư Thích Nữ Như Kim thế danh Trần Thị Phương Chi, sinh ra và lớn lên tại TP. Hà Tiên, hiện giữ chức vị Phó ban Ban Trị sự Phật giáo TP. Hà Tiên. Từ năm 2014, Ni sư được Ni trưởng Thích Nữ Như Hải bổ nhiệm trụ trì Sắc Tứ Tam Bảo tự. Là di tích lịch sử cấp tỉnh, Ni sư luôn gìn giữ và phát triển ngôi Sắc Tứ Tam Bảo trên nhiều phương diện. Vào năm 2019, Ni sư cho xây dựng ngôi nhà mát bằng gỗ mang đậm chất thiền để làm nơi đón tiếp các bậc chư Tôn đức Tăng Ni ghé thăm. Năm 2021 xây dựng đài Quan Âm tự tại ngay giữa ao sen cạnh cổng chùa và mở lối đi xung quanh đài Quan Âm cho du khách thập phương đến chiêm bái.
4. Vai trò của chùa Sắc Tứ Tam Bảo đối với nhân dân Hà Tiên
Từ xa xưa, khi đất Hà Tiên vừa thành lập. Ngôi chùa Sắc Tứ Tam Bảo đã được Mạc Cửu xây dựng đầu tiên cho mẹ tu học giáo lý nhà Phật. Là tôn giáo đầu tiên đồng hành cùng người dân từ thuở đó nên đa số người dân nơi đây đều theo đạo Phật. Với người Hà Tiên, ngôi Tam Bảo là nơi gửi gắm nỗi niềm tâm linh, là chỗ dựa tinh thần của mình khi gặp những khó khăn, trắc trở trong cuộc sống. Như một nét văn hóa đẹp từ xưa đến nay, vào thời khắc giao thừa, chùa Sắc Tứ Tam Bảo trở thành tâm điểm cho nhiều người dân đi viếng chùa cầu bình an và những điều tốt đẹp đầu năm.
Chùa Tam Bảo còn là nơi sinh hoạt Gia đình Phật tử qua nhiều thế hệ. Nhiều người cho con em mình đến đây để học giáo lý nhà Phật từ nhỏ đến lớn, với mong muốn các em trở thành người có nhân cách tốt. Bên cạnh đó, chùa còn là nơi hoạt động thiện nguyện với nhiều nghĩa cử cao đẹp như: Phát lương thực và một số nhu yếu phẩm ủng hộ người dân có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn TP. Hà Tiên, góp phần làm “tốt đời – đẹp đạo”.
Tạm kết
Theo dòng thời gian, cùng với những thăng trầm lịch sử, chùa Sắc Tứ Tam Bảo vẫn tồn tại và ngày càng khang trang, tôn lên vẻ uy nghiêm, cổ kính. Chùa còn là niềm tin, nơi người dân hội tụ vào những dịp trọng đại, gắn với văn hóa, truyền thống như: Giao thừa, những ngày Rằm lớn,… khẳng định vị thế và sự phát triển của đạo Phật trong lòng người dân và đất Hà Tiên.
Chú thích:
[1] Trường Đại học Thủ Dầu Một (2018), Nam Bộ từ năm 1698 đến cuối thế kỷ XIX qua nghiên cứu của người nước ngoài, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.118.
[2] Nguyễn Văn Nguyên (2006), Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, Nxb. Thế giới, tr.13-14.
[3] Nguyễn Văn Nguyên (2006), Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, Nxb. Thế giới, tr.41.
[4] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Quyển VI: Thành trì chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, TS. Huỳnh Văn Tới hiệu đính và giới thiệu, tr.24. PDF. Truy xuất từ: file:///C:/Users/Admin/Downloads/GIA-DINH-THANH-THONG-CHI-Quyen%206.pdf.
[5] Nhiều tác giả (2013), Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.06.
[6] Đặng Việt Thùy (2013), Di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, tr.190.
[7] Nhiều tác giả (2013), Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.06-07.
[8] Nhiều tác giả (2013), Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.7-8.
[9] Sđd, tr.8.
[10] Sđd, tr.13-14.
Hình thành khoảng thế kỷ XVI và có vị trí đắc địa trên vịnh Thái Lan, Hà Tiên được xem là cửa ngõ giao lưu văn hóa, thương mại. Nơi đây được mệnh danh là chốn: “Huyền ca đất Phật người hiền/Ngàn năm Văn hiến Hà Tiên lưu đời”, bởi người dân chủ yếu theo đạo Phật. Qua bao thăng trầm của lịch sử, đạo Phật vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần ở địa phương. Nhắc đến Hà Tiên, không thể không nhắc đến công lao của Mạc Cửu – Tổng binh trấn Hà Tiên, người đã khai hoang và xây dựng vùng đất này thành nơi trù phú, phát triển thương mại và Phật giáo. Ngôi chùa nổi tiếng nhất trên đất Hà Tiên – Sắc Tứ Tam Bảo tự – cũng do chính ông xây dựng.
1. Lịch sử khai nguyên chùa Tam Bảo
Về Mạc Cửu
Mạc Cửu (1655-1735) là người xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc [1]. Theo Nguyễn Văn Nguyên [2], ông sinh ra trong thời loạn, khi triều đình nhà Minh suy sụp. Vì không chấp nhận sống dưới sự cai trị của nhà Thanh, vào năm 1671, ông vượt biển về phương Nam, đến vùng đất ngày nay là Hà Tiên khai khẩn. Sau một thời gian, từ chốn hoang sơ, dưới bàn tay và trí óc của Mạc Cửu, nơi đây đã trở thành vùng đất màu mỡ, trù phú. Ông lập thành 7 thôn và đặt tên là Hà Tiên. Với khả năng nhìn xa trông rộng, biết thời thế, Mạc Cửu quyết định quy thuận chúa Nguyễn ở Đàng Trong và xin làm Trưởng đất Hà Tiên. Chúa Nguyễn bằng lòng trao cho ông chức Tổng binh. Như thế, Hà Tiên trở thành một vùng trù phú, người dân khắp nơi đến đây an cư, lạc nghiệp.
Sà Đại Việt ta tự
Sắc Tứ Tam Bảo tự còn gọi là chùa Tam Bảo hay chùa Tiêu. Theo “Mạc thị gia phả” ghi chép: “Ngày trước, khi Thái công (Mạc Cửu) vượt biển đi về phương Nam, cụ Thái thái Bà bà vì nhớ con da diết, nên cũng từ Lôi Châu vượt biển đến thăm. Thái công nhân đó giữ Bà bà ở lại để phụng dưỡng. Ít lâu sau, Thái Bà bà vào điện Tam Bảo lễ Phật, Thái bà đang ngồi tĩnh tọa hành lễ trước tượng Phật thì tự nhiên mà hóa. Nhân đó mới đúc một pho tượng lập khám thờ cụ ở chùa Tam Bảo, đến nay di tích vẫn còn” [3]. Sách Gia Định thành thông chí cũng nhắc đến chùa Tam Bảo như sau: “Chùa Tam Bảo ở sau trấn thự, cảnh chùa rộng rãi, tượng Phật to lớn, chùa do Tổng binh Mạc Cửu dựng lên từ buổi đầu” [4]. Trong Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo có ghi: “Khi Mạc Cửu rời Trung Quốc qua khai thác đất Hà Tiên, không đem mẹ theo một lượt. Sau đó ít lâu, bà mẹ nhớ con sang tìm, Mạc Cửu dựng ngôi chùa sau chấn thự cho mẹ tu hành, thỉnh tượng Phật bằng đồng để thờ” [5]. Chùa được xây dựng vào năm 1730 [6].
Về Mạc Cửu
Mạc Cửu (1655-1735) là người xã Lê Quách, huyện Hải Khang, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc [1]. Theo Nguyễn Văn Nguyên [2], ông sinh ra trong thời loạn, khi triều đình nhà Minh suy sụp. Vì không chấp nhận sống dưới sự cai trị của nhà Thanh, vào năm 1671, ông vượt biển về phương Nam, đến vùng đất ngày nay là Hà Tiên khai khẩn. Sau một thời gian, từ chốn hoang sơ, dưới bàn tay và trí óc của Mạc Cửu, nơi đây đã trở thành vùng đất màu mỡ, trù phú. Ông lập thành 7 thôn và đặt tên là Hà Tiên. Với khả năng nhìn xa trông rộng, biết thời thế, Mạc Cửu quyết định quy thuận chúa Nguyễn ở Đàng Trong và xin làm Trưởng đất Hà Tiên. Chúa Nguyễn bằng lòng trao cho ông chức Tổng binh. Như thế, Hà Tiên trở thành một vùng trù phú, người dân khắp nơi đến đây an cư, lạc nghiệp.
Sà Đại Việt ta tự
Sắc Tứ Tam Bảo tự còn gọi là chùa Tam Bảo hay chùa Tiêu. Theo “Mạc thị gia phả” ghi chép: “Ngày trước, khi Thái công (Mạc Cửu) vượt biển đi về phương Nam, cụ Thái thái Bà bà vì nhớ con da diết, nên cũng từ Lôi Châu vượt biển đến thăm. Thái công nhân đó giữ Bà bà ở lại để phụng dưỡng. Ít lâu sau, Thái Bà bà vào điện Tam Bảo lễ Phật, Thái bà đang ngồi tĩnh tọa hành lễ trước tượng Phật thì tự nhiên mà hóa. Nhân đó mới đúc một pho tượng lập khám thờ cụ ở chùa Tam Bảo, đến nay di tích vẫn còn” [3]. Sách Gia Định thành thông chí cũng nhắc đến chùa Tam Bảo như sau: “Chùa Tam Bảo ở sau trấn thự, cảnh chùa rộng rãi, tượng Phật to lớn, chùa do Tổng binh Mạc Cửu dựng lên từ buổi đầu” [4]. Trong Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo có ghi: “Khi Mạc Cửu rời Trung Quốc qua khai thác đất Hà Tiên, không đem mẹ theo một lượt. Sau đó ít lâu, bà mẹ nhớ con sang tìm, Mạc Cửu dựng ngôi chùa sau chấn thự cho mẹ tu hành, thỉnh tượng Phật bằng đồng để thờ” [5]. Chùa được xây dựng vào năm 1730 [6].
Vị trụ trì đầu tiên của chùa Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Trừng, đạo hiệu Huỳnh Long, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35.
Sau hàng trăm năm tồn tại, có lịch sử hình thành gắn với vùng đất Hà Tiên, đến nay, ngôi chùa vẫn uy nghiêm vững chãi, ngày càng phát triển theo dòng lịch sử và đồng hành cùng người dân Hà Tiên qua bao khó khăn, đúng với câu:
2. Sơ lược các vị trụ trì Sắc Tứ Tam Bảo tự
Vị trụ trì đầu tiên của chùa Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Trừng, đạo hiệu Huỳnh Long, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Trong Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo có ghi: “Tương truyền, một đêm mẹ của Mạc Cửu nằm mộng thấy con rồng vàng ngậm cành hoa sen, quấn trên cột buồm của một chiếc ghe thương hồ, từ hướng Bắc đến. Sáng ngày, bà thuật lại điềm mộng trên cho Mạc Cửu nghe. Ít lâu sau có một vị tu sĩ, tướng mạo phương phi đến xin diện kiến. Khi tiếp chuyện, hỏi ra mới biết vị tu sĩ ấy trước là một danh tướng của Minh triều rời tổ quốc đến quy phục Nam triều. Ngài chán cảnh thế nhân xuất gia theo Phật, đó đây vân du giáo hóa pháp hiệu là Ấn Trừng, đạo hiệu là Huỳnh Long ứng với điềm mộng của Thái thái Bà bà là “Rồng vàng”. Mạc Cửu liền lưu ngài lại Trấn phủ truyền trao quy giới cho mẹ tu hành. Ngài thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Mở đầu khai nguyên cho Phật giáo Hà Tiên bắt đầu từ đó” [7]. Như thế, vị trụ trì đầu tiên của chùa Sắc Tứ Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Trừng – người có công lao to lớn trong việc khai nguyên Phật giáo tại Hà Tiên lúc bấy giờ. Nhờ thế, Phật giáo tại Hà Tiên phát triển cho đến ngày nay.
Sau hàng trăm năm tồn tại, có lịch sử hình thành gắn với vùng đất Hà Tiên, đến nay, ngôi chùa vẫn uy nghiêm vững chãi, ngày càng phát triển theo dòng lịch sử và đồng hành cùng người dân Hà Tiên qua bao khó khăn, đúng với câu:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống bao đời của Tổ tông”.
Vị trụ trì đầu tiên của chùa Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Trừng, đạo hiệu Huỳnh Long, thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Trong Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo có ghi: “Tương truyền, một đêm mẹ của Mạc Cửu nằm mộng thấy con rồng vàng ngậm cành hoa sen, quấn trên cột buồm của một chiếc ghe thương hồ, từ hướng Bắc đến. Sáng ngày, bà thuật lại điềm mộng trên cho Mạc Cửu nghe. Ít lâu sau có một vị tu sĩ, tướng mạo phương phi đến xin diện kiến. Khi tiếp chuyện, hỏi ra mới biết vị tu sĩ ấy trước là một danh tướng của Minh triều rời tổ quốc đến quy phục Nam triều. Ngài chán cảnh thế nhân xuất gia theo Phật, đó đây vân du giáo hóa pháp hiệu là Ấn Trừng, đạo hiệu là Huỳnh Long ứng với điềm mộng của Thái thái Bà bà là “Rồng vàng”. Mạc Cửu liền lưu ngài lại Trấn phủ truyền trao quy giới cho mẹ tu hành. Ngài thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 35. Mở đầu khai nguyên cho Phật giáo Hà Tiên bắt đầu từ đó” [7]. Như thế, vị trụ trì đầu tiên của chùa Sắc Tứ Tam Bảo là Hòa thượng Ấn Trừng – người có công lao to lớn trong việc khai nguyên Phật giáo tại Hà Tiên lúc bấy giờ. Nhờ thế, Phật giáo tại Hà Tiên phát triển cho đến ngày nay.
Gần 03 thế kỷ trôi qua, tre già măng mọc, các bậc Tôn đức nối tiếp nhau truyền bá chánh pháp. Chùa Sắc Tứ Tam Bảo trải qua 21 đời trụ trì [8]:
1. HT. Thượng Ấn hạ Trừng Thiền sư (đạo hiệu Huỳnh Long).
2. HT. Hòa Quang Hiền Thiền sư
3. Minh Tam Nhất Đới Thiền sư
4. Minh Giác Trí Tàng Thiền sư
5. Minh Liêm Hoằng Ấn Thiền sư
6. Minh Thông Hải Huệ Thiền sư
7. Minh Chơn Giác Ngạn Thiền sư
8. Như Đức Vĩnh Trọng Thiền sư
9. Như Khả Chơn Truyền Thiền sư
10. Nhứt Huy Phước Chơn Thiền sư
11. Thuần Hạnh Hòa thượng
12. Phước Thành Yết ma
13. Phước Ân Hòa thượng (1920-1946)
14. Phước Quang Hòa thượng
15. Thích Quảng Đức Hòa thượng (1957-1959)
16. Thích Vĩnh Đạt Hòa thượng
17. Thích Chánh Định Hòa thượng
18. Thích Thiện Giác (1960-1974)
19. Thích Thiện Hạnh
20. Ni trưởng Thích Nữ Như Hải.
Và vị trụ trì hiện tại là Ni sư Thích Nữ Như Kim. Trải qua 19 đời trụ trì đầu tiên là chư Tôn đức Tăng. Bắt đầu vị trụ trì thứ 20 trở đi là các vị Tôn đức Ni.
3. Kiến trúc chùa Sắc Tứ Tam Bảo theo dòng lịch sử
Được xây dựng vào năm 1730, chùa Sắc Tứ Tam Bảo nằm trong khu vực giáp với biên giới Tây Nam, chịu ảnh hưởng của những cuộc chiến tranh. Nhưng gần 03 thập kỷ qua, ngôi Sắc Tứ Tam Bảo vẫn ngày càng hưng thịnh, cũng nhờ vào các vị trụ trì nơi đây phát tâm tu sửa, với hạnh nguyện cho Phật giáo Hà Tiên phát triển. Để có được ngày hôm nay, ngôi Sắc Tứ Tam Bảo phải trải qua nhiều lần trùng tu. Đáng kể nhất là hai lần trùng tu sau:
Lần thứ nhất, thời Hòa thượng Phước Ân (1920-1946) [9] thuộc dòng Lâm Tế thứ 40, chứng kiến cảnh ngôi chùa bị thời gian làm hư hoại dần, đã vận động Phật tử tu bổ lại khang trang hơn. Để tôn tạo cảnh quan, Hòa thượng đã trồng một số cây cổ thụ lớn, chủ yếu là cây sao để tăng thêm sự uy nghiêm, cổ kính cho ngôi chùa.
Ngôi Sắc Tứ Tam Bảo được trùng tu và xây mới lần thứ hai dưới thời Ni trưởng Thích Nữ Như Hải. Ni trưởng Thích Nữ Như Hải thế danh là Huỳnh Thị Phước, sinh năm 1941 tại huyện Cầu Kè (tỉnh Trà Vinh). Năm 15 tuổi, Ni trưởng đã phát nguyện xuất gia tại chùa Quan Âm (Tiền Giang). Năm 1962, Ni trưởng tiếp tục tu học tại chùa Diệu Ấn (Phan Rang), sau đó đến chùa Dược Sư (Sài Gòn) tu học đến hết năm 1973. Vào ngày 08/4/1974, Ni trưởng Thích Nữ Như Hải được Hòa thượng Thích Huyền Vi và Hòa thượng Thích Thanh Từ tin tưởng và bổ nhiệm về trụ trì chùa Sắc Tứ Tam Bảo [10].
Ni trưởng có công trùng tu và xây mới các hạng mục công trình, tôn tạo cho ngôi Sắc Tứ Tam Bảo hoàn thiện, khang trang. Năm 2014 khánh thành cổng Tam quan chùa Sắc Tứ Tam Bảo, hai bên có đôi câu đối: “Nhất trần bất nhiễm Bồ đề địa. Vạn thiện đồng quy Bát nhã môn”, nghĩa là: “Không có một bụi trần nào có thể nhiễm vào đất Bồ đề. Tất cả mọi điều thiện đều quay về cửa Bát nhã”.
Hiện nay, Ni sư Thích Nữ Như Kim là vị trụ trì thứ 21 – tiếp nối hoằng dương ngôi Tam Bảo. Ni sư Thích Nữ Như Kim thế danh Trần Thị Phương Chi, sinh ra và lớn lên tại TP. Hà Tiên, hiện giữ chức vị Phó ban Ban Trị sự Phật giáo TP. Hà Tiên. Từ năm 2014, Ni sư được Ni trưởng Thích Nữ Như Hải bổ nhiệm trụ trì Sắc Tứ Tam Bảo tự. Là di tích lịch sử cấp tỉnh, Ni sư luôn gìn giữ và phát triển ngôi Sắc Tứ Tam Bảo trên nhiều phương diện. Vào năm 2019, Ni sư cho xây dựng ngôi nhà mát bằng gỗ mang đậm chất thiền để làm nơi đón tiếp các bậc chư Tôn đức Tăng Ni ghé thăm. Năm 2021 xây dựng đài Quan Âm tự tại ngay giữa ao sen cạnh cổng chùa và mở lối đi xung quanh đài Quan Âm cho du khách thập phương đến chiêm bái.
4. Vai trò của chùa Sắc Tứ Tam Bảo đối với nhân dân Hà Tiên
Từ xa xưa, khi đất Hà Tiên vừa thành lập. Ngôi chùa Sắc Tứ Tam Bảo đã được Mạc Cửu xây dựng đầu tiên cho mẹ tu học giáo lý nhà Phật. Là tôn giáo đầu tiên đồng hành cùng người dân từ thuở đó nên đa số người dân nơi đây đều theo đạo Phật. Với người Hà Tiên, ngôi Tam Bảo là nơi gửi gắm nỗi niềm tâm linh, là chỗ dựa tinh thần của mình khi gặp những khó khăn, trắc trở trong cuộc sống. Như một nét văn hóa đẹp từ xưa đến nay, vào thời khắc giao thừa, chùa Sắc Tứ Tam Bảo trở thành tâm điểm cho nhiều người dân đi viếng chùa cầu bình an và những điều tốt đẹp đầu năm.
Chùa Tam Bảo còn là nơi sinh hoạt Gia đình Phật tử qua nhiều thế hệ. Nhiều người cho con em mình đến đây để học giáo lý nhà Phật từ nhỏ đến lớn, với mong muốn các em trở thành người có nhân cách tốt. Bên cạnh đó, chùa còn là nơi hoạt động thiện nguyện với nhiều nghĩa cử cao đẹp như: Phát lương thực và một số nhu yếu phẩm ủng hộ người dân có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn TP. Hà Tiên, góp phần làm “tốt đời – đẹp đạo”.
Tạm kết
Theo dòng thời gian, cùng với những thăng trầm lịch sử, chùa Sắc Tứ Tam Bảo vẫn tồn tại và ngày càng khang trang, tôn lên vẻ uy nghiêm, cổ kính. Chùa còn là niềm tin, nơi người dân hội tụ vào những dịp trọng đại, gắn với văn hóa, truyền thống như: Giao thừa, những ngày Rằm lớn,… khẳng định vị thế và sự phát triển của đạo Phật trong lòng người dân và đất Hà Tiên.
Thích Nữ Huệ Giác
Chú thích:
[1] Trường Đại học Thủ Dầu Một (2018), Nam Bộ từ năm 1698 đến cuối thế kỷ XIX qua nghiên cứu của người nước ngoài, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.118.
[2] Nguyễn Văn Nguyên (2006), Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, Nxb. Thế giới, tr.13-14.
[3] Nguyễn Văn Nguyên (2006), Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả, Nxb. Thế giới, tr.41.
[4] Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Quyển VI: Thành trì chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, TS. Huỳnh Văn Tới hiệu đính và giới thiệu, tr.24. PDF. Truy xuất từ: file:///C:/Users/Admin/Downloads/GIA-DINH-THANH-THONG-CHI-Quyen%206.pdf.
[5] Nhiều tác giả (2013), Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.06.
[6] Đặng Việt Thùy (2013), Di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, tr.190.
[7] Nhiều tác giả (2013), Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.06-07.
[8] Nhiều tác giả (2013), Lịch sử chùa Sắc Tứ Tam Bảo, Nxb. Văn hóa – Văn nghệ, tr.7-8.
[9] Sđd, tr.8.
[10] Sđd, tr.13-14.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét