2 tháng 9, 2021

Chùa Thần Quang

Tên thường gọi: Chùa Keo

Chùa Thần Quang tọa lạc ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Toàn cảnh chùa

Cảnh chùa

Một góc chùa

Tam quan chùa

Mặt tiền tòa thượng điện

Chùa vốn có tên là Nghiêm Quang tự, được xây từ năm 1061 ở hương Giao Thủy, hữu ngạn sông Hồng. Đến năm 1167, chùa đổi tên Thần Quang tự. Tên chùa Keo thường được gọi vì chùa được dựng ở ấp Keo. Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.

Năm 1611, do nước sông Hồng dâng cao gây ngập lụt cả làng, người dân làng Keo đã dời đi hai nơi, dựng lại hai chùa Keo mới, đó là chùa Keo Hành Thiện hay chùa Keo Dưới ở mạn Đông Nam hữu ngạn sông Hồng, và chùa Keo Trên ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Vũ Thư ngày nay.

Năm 1630, viên quan Hoàng Nhân Dũng cùng vợ là Lại Thị Ngọc Lễ đứng ra vận động xây dựng chùa, do ông Nguyễn Văn Trụ vẽ kiểu. Công trình được hoàn thành vào năm 1632.

Điện Phật

Tượng Đức Phật

Tượng La Hán


Tượng Hộ pháp

Phật điện được bài trí tôn nghiêm. Chùa còn bảo lưu được nhiều tượng thờ thời Lê. Các pho tượng đặc sắc là: tượng đức Phật Thích Ca nhập niết bàn, tượng Bồ tát Quan Thế Âm, tượng Thập bát La hán v.v...

Sau chùa có đền thờ Thiền sư Không Lộ, vị sư trụ trì ngôi chùa Nghiêm Quang đầu tiên vào thời Lý.

Chùa có quy mô kiến trúc rộng lớn, trên một khu đất rộng khoảng 58.000m2. Chùa trước đây có 154 gian, nay còn 107 gian. Chùa được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ XVII, XVIII và năm 1941. Lần trùng tu năm 1941 có sự giúp đỡ của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp.

Chùa có hai tam quan, tam quan ngoài và tam quan trong. Tam quan trong của chùa vẫn còn giữ được bộ cánh cửa gỗ thế kỷ XVII, cao 2m, rộng 2,6m, chạm một ổ rồng với những rồng mẹ và rồng con chầu mặt nguyệt.

Công trình kiến trúc nổi tiếng độc đáo của chùa là gác chuông. Gác chuông cao 11,04m, có 3 tầng mái. Bộ mái kết cấu gần 100 dàn đầu voi. Tầng một có treo một khánh đá (ngang 1,87m), tầng hai có quả chuông đúc năm 1686, tầng ba và tầng thượng có chuông đúc năm 1796.

Chùa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Chùa Keo là ngôi cổ tự nổi tiếng bậc nhất ở Việt Nam.

Tượng thiền sư Không Lộ

Gác chuông (thế kỷ 17; cao 11,04m)

Chạm rồng ở tam quan

Đại hồng chung

Chùa Việt Nam - Xưa và Nay
Võ văn Tường
Chùa Keo - Kiến trúc chùa đẹp bậc nhất Việt Nam

Ngôi chùa hơn 400 năm tuổi, một trong những công trình kiến trúc chùa đẹp nhất Việt Nam, sẽ là điểm dừng chân thú vị với du khách ghé thăm Thái Bình.

Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình được khởi công xây dựng từ năm 1630 và hoàn thành vào năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê. 

Đây là một trong số ít những ngôi chùa cổ ở Việt Nam còn lưu giữ được hầu như nguyên vẹn kiến trúc xưa. 

Bước vào bên trong chùa là gian Tiền đường lợp mái ngói, được chống đỡ bằng những cột gỗ lim lớn rất chắc chắn. Trước mặt Tiền đường là thảm cỏ xanh mướt, với những hàng cau cảnh nhỏ bên cạnh. Hai bên hành lang là hai bia đá cổ, khắc ghi lịch sử xây dựng của chùa. 

Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khu kiến trúc chùa rộng khoảng 58.000 m2, gồm nhiều ngôi nhà làm thành những cụm kiến trúc khác nhau. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 17 công trình gồm 128 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". 

Hai bên là dãy hành lang dẫn tới các gian thờ. Dãy hành lang này cũng được lợp mái ngói và chống bằng cột gỗ lim, rất ấn tượng. Những con đường lát đá sẽ đưa bạn đến gian thờ Phật, Thánh, gian thờ Tổ và tháp chuông. 

Những gian nhà được xếp nối nhau, bên trên đỉnh chóp mái ngói là hoa văn cách điệu hình tượng “cá chép hóa rồng”. 

Gác chuông chùa Keo với bộ mái kết cấu gần 100 đàn đầu voi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam. Bộ cánh cửa chạm rồng là bộ cửa độc đáo của cả nước. Chùa còn bảo lưu được hàng trăm tượng Pháp và đồ tế thời Lê. Có thể nói Chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ XVII, với nhiều kiệt tác đặc sắc. 

Bên cạnh kiến trúc cổ, chùa Keo còn lưu giữ rất nhiều pho tượng lâu đời. 

Nguyên vật liệu chủ yếu dùng để xây chùa là gỗ, gạch ngói và đá. Trải qua bao thăng trầm, biến cố của thời gian, ngôi chùa vẫn toát lên vẻ cổ kính, vững chắc với thời gian. 

Trải qua 400 năm những hoa văn kiến trúc thời nhà Lê vẫn còn được bảo tồn. Với những giá trị lịch sử, văn hóa, chùa Keo được nhà nước xếp hạng là “Di tích Quốc gia đặc biệt”. 

Hằng năm vào ngày mùng 4 tháng giêng Âm lịch, nhân dân làng Keo lại mở hội xuân ngay ở ngôi chùa mang tên làng. Hơn chín tháng sau, vào các ngày 13, 14, 15 tháng 9 Âm lịch, chùa Keo lại mở hội mùa thu. 

Trần Việt Anh
Mùa xuân đi hội chùa Keo

Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo. Ngày mồng 4 Tết âm lịch hàng năm, chùa Keo khai hội mùa xuân để đón khách thập phương về tham quan và dâng hương nhân dịp năm mới.

Chùa Keo là di tích lịch sử văn hóa với 2 cụm kiến trúc: chùa là nơi thờ Phật và Đền thờ đức thánh Dương Không Lộ (Không Lộ Thiền sư) - vị đại sư thời nhà Lý có công dựng chùa.

Từ bên ngoài, đi qua một sân lát đá, khách sẽ đến tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa cao 2 m, rộng 2,6 m, chạm rồng mẹ và rồng con chầu nguyệt. Văn bia và địa bạ chùa Keo còn ghi lại diện tích toàn khuôn viên chùa rộng khoảng 58.000 m², gồm nhiều ngôi nhà làm thành những cụm kiến trúc khác nhau. Hiện nay toàn bộ kiến trúc chùa còn lại 18 công trình, gồm 133 gian xây dựng theo kiểu "Nội công ngoại quốc". Đó là các công trình kiến trúc tiêu biểu như: Tam quan, chùa Phật, điện Thánh, gác chuông, hành lang, khu tăng xá… Toàn bộ công trình đều làm bằng gỗ lim và là nơi được các nghệ nhân điêu khắc thời nhà Hậu Lê chạm khắc rất tinh xảo. 

Chùa Keo từ bên ngoài đi vào khu Tam Quan 


Du khách thập phương về dự Lễ hội xuân chùa Keo 


Có thể nói chùa Keo là một bảo tàng nghệ thuật đầu thế kỷ 17, với nhiều kiệt tác đặc sắc. Khu thờ Phật của chùa Keo có gần 100 pho tượng. Công trình kiến trúc tiêu biểu nhất ở chùa Keo phải kể đến tòa gác chuông cao 11,04 m, có 3 tầng. Bộ khung gác chuông làm bằng gỗ liên kết với nhau bằng mộng, nâng bổng 12 mái ngói với 12 đao loan uốn cong dáng vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng. Ở tầng một có treo một khánh đá cao 1,20 m. Tầng hai có quả chuông đồng lớn đúc năm 1686 cao 1,30 m, đường kính 1 m. Hai quả chuông nhỏ treo ở tầng ba và tầng thượng cao 0,62 m, đường kính 0,69 m đều được đúc năm 1796. 

Gác chuông được coi là viên ngọc quý trong gia tài kiến trúc Việt Nam 

Khánh đá tại tầng 1 của gác chuông 

Đến thăm chùa Keo, ta có thể thấy sự kính trọng của người dân đối với đức thánh Không Lộ. Đối với dân làng, Không Lộ Thiền sư không chỉ là Thành Hoàng làng mà còn là vị Thủy thần che chở cho họ. Nhiều đồ thờ quý giá là đồ dùng của Thiền sư Không Lộ như bộ tràng hạt bằng ngà, một bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà tương truyền do Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong những năm tháng tu hành.

Hàng năm chùa Keo diễn ra 2 kỳ hội là hội xuân được tổ chức vào ngày 4 Tết Nguyên Đán và hội thu được tổ chức vào các ngày 13-14-15 tháng 9 âm lịch. Lễ hội chùa Keo hấp dẫn bởi sự hòa quyện giữa nghi thức tôn giáo truyền thống và các hoạt động văn nghệ dân gian, sinh hoạt văn hóa. Ngoài phần rước kiệu, thuyền rồng, lễ hội thu hút du khách mọi lứa tuổi với những điệu múa ếch vồ, các trò thi như thi bắt vịt, thi nấu cơm, ném pháo, bơi chải … 

Nghi thức tế lễ dâng hương khai hội đầu xuân 

Bên trong đền thờ đức Thánh Không Lộ Thiền Sư 


Thuyền rồng trong buổi tế lễ 



Gian thờ Tổ 


Các đội thi trổ tài kín nước, đánh lửa, thổi cơm dâng lên lễ Thánh nhân dịp đầu năm 

Trải qua gần 400 năm tồn tại, qua nhiều lần tu bổ, tôn tạo, chùa Keo vẫn giữ nguyên bản sắc kiến trúc độc đáo của mình từ thế kỷ 17. Những nghi thức tôn giáo và những hoạt động sinh hoạt văn hóa dân gian tại lễ hội chùa Keo phản ánh rõ nét đời sống tâm linh, văn hóa và những ước vọng của cư dân nông nghiệp lúa nước. Điều đó tạo sức cuốn hút lớn đối với du khách mọi lứa tuổi đến với chùa Keo vào mỗi dịp lễ hội

Bài và ảnh: MAI VÂN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét